Tiểu luận triết SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY PDF

Title Tiểu luận triết SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 20
File Size 199.8 KB
File Type PDF
Total Downloads 18
Total Views 524

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊTIỂU LUẬNKINH TẾ CHÍNH TRỊĐỀ TÀI: SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙHỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢNXUẤT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAYHọ và tên: Lê Thị Ngọc Anh Lớp: TRI114. MSV: 1911110017 SBD: Giảng viên giảng dạy: Th Ng...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ ĐỀ TÀI: SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI NƯỚC TA HIỆN NAY

Họ và tên: Lê Thị Ngọc Anh Lớp: TRI114.3 MSV: 1911110017 SBD: Giảng viên giảng dạy: Th.S Nguyễn Thị Tùng Lâm

Hà Nội, ngày 1 tháng 5 năm 2020

MỤC LỤC

L Ờ I M ỞĐẦẦU

Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã trải qua 5 phương thức sản xuất: công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa. Xã hội luôn vận động phát triển không ngừng theo các cấp độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Chủ nghĩa Mác đã đưa ra những lý luận thuyết phục cho sự tiến hóa không ngừng này hay chính là tìm ra động lực cốt lõi thúc đẩy sự phát triển của xã hội - đó là sự tương thích giữa quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất. Từ khi con người nhận thức ra vấn đề này, họ tích cực áp dụng lý thuyết vào thực tiễn nhằm mục đích tiến tới xa hơn trong công cuộc phát triển đất nước. 1. Lý do chọn đề tài Từ lâu, quá trình vận dụng quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất để đưa các quốc gia phát triển bền vững về cả mặt hệ thống chính trị, kinh tế , xã hội luôn là mục tiêu mà các nhà lãnh đạo theo đuổi. Đối với các nước định hướng phát triển theo chủ nghĩa xã hội như Việt Nam, hiểu và áp dụng quy luật này vào thực tiễn lại càng trở nên cấp thiết hơn. Do đó, tôi chọn đề tài “ Sự vận dụng quy luật sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vào sự nghiệp đổi mới đất nước” để giúp bạn đọc có cái nhìn rõ hơn về công cuộc phát triển đất nước 2. Mục đích nghiên cứu Nắm rõ được quy luật tương thích giữa quan hệ sản xuất và trình độ của lực lượng sản xuất để có thể tự tìm hiểu, có cái nhìn tổng quan về các vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước. 3. Đối tượng nghiên cứu Quá trình vận dụng, áp dụng lý thuyết chủ nghĩa duy vật biện chứng vào thực tiễn để điều chỉnh mối tương quan lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 4. Kết cấu tiểu luận I. Cơ sở lý luận của quy luật mối quan hệ phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất II. Thực trạng quá trình áp dụng quy luật trước và sau năm 1986 III. Phương hướng phát triển đất nước dựa trên quy luật phù hợp mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất

PHẦẦN NỘI DUNG C sơ lý ở lu nậc aủmốối quan h ệphù h ợ p gi ữ a quan h ệs ả n xuấốt và lực l ượng s ả n xuấốt Khái ni m vàệ kếốt cấốu c aủl cựl ượ ng s nảxuấốt, quan h ệs ả n xuấốt Khái ni m ệvà kếết cấếu c ủ a l ực l ượng s ản xuấết

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động (sức khỏe, thể chất, kinh nghiệm, kĩ năng, tri thức lao động của họ) với tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động để tạo ra một sức sản xuất vật chất nhất định. Lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Con người: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tuệ của người lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu. Tư liệu sản xuất gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động.Trong tư liệu sản xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục thế giới tự nhiên. Khái ni m ệvà kếết cấếu c ủ a quan h ệs ản xuấết

Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội).Quan hệ sản

xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, các mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất gồm ba mặt:  Chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tức là quan hệ giữa người đối với tư liệu sản xuất, nói cách khác tư liệu sản xuất thuộc về ai.  Chế độ tổ chức và quản lý sản xuất, kinh doanh, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý với công nhân.  Chế độ phân phối sản xuất, sản phẩm tức là quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất để làm cho chúng không ngừng được tăng trưởng, thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nâng cao phúc lợi người lao động. Các mặt nói trên của quan hệ sản xuất có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sở hữu giữ vai trò quyết định. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ phân phối lưu thông cũng có tác động trở lại quan hệ sở hữu. Mốối quan h bi ệ nệch ng ứ gi aữl cựl ượ ng s nảxuấốt và quan h ệs ả n xuấốt. L c l ự ngượ s n xuấết ả có vai trò quyếết đ nhị đốếi v ớ i s ựhình thành, biếến đ ổi và phát tri ển c ủa quan h ệ s ản xuấết

Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, ở trình độ kĩ năng, kinh nghiệm của người lao động, trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật và sản xuất…ứng với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của nó. Trình độ của lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất cụ thể: Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có một quan hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt của

nó.Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi và phát triển, do yêu cầu phát triển của sản xuất vật chất khi lực lượng sản xuất không ngừng phát triển lên một trình độ cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất cũng phải biến đổi theo cho phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản xuất.Tuy nhiên cần nhận thấy, lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, nó luôn vận động và biến đổi trong quá trình lịch sử, hay nói cách khác lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh hơn trong khi quan hệ sản xuất thì chậm thay đổi hơn. Chính vì vậy, khi sự phát triển của lực lượng sản xuất đạt đến một trình độ nhất định thì sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất hiện có và xuất hiện yêu cầu phải xóa bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. S tác ự đ ngộtr l ởi cạ a quan ủ h s ện xuấết ả đốếi v ớ il ự c l ượ ng s ả n xuấết.

Mặc dù bị quyết định bởi lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối so với lực lượng sản xuất, vì vậy quan hệ sản xuất có thể tác động trở lại lực lượng sản xuất: Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất phân phối do đó nó có ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ của người lao động, tới năng suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao động, từ đó tác động tới lực lượng sản xuất.Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất diễn ra theo hai xu hướng:  Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuát thì sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển  Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.Sự phù hợp “ được quan niệm là sự phù hợp biện chứng chứa đựng mâu thuẫn”, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn, bao hàm mâu thuẫn.Sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất có thể là

do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn hoặc do quan hệ sản xuất vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất là quan hệ chung nhất chi phối toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự phát triển của lực lượng sản xuất kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất, phá bỏ quan hệ sản xuất lỗi thời, quá trình này lặp đi lặp lại làm cho xã hội loài người trải qua những phương thức sản xuất từ thấp tới cao dẫn tới sự thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội. Tình hình áp d ngụquy lu t mốối ậ quan h sệ nảxuấốt và l ự c l ượ ng s ả n xuấốt tr ước và sau năm 1986 vào đ ổ im ớ i đấốt nước Tr ước Đ ại h ội Đ ảng lấần VI năm 1986

I.1.1. Những sai lầm khi vận dụng quy luật phù hợp quan hệ sản xuất và trình độ lực lượng sản xuất Nước ta là đất nước nông nghiệp nghèo lạc hậu, kể từ chiến thắng 1975 thống nhất toàn bộ hai miền bắc nam, nhiệm vụ cấp thiết của Đảng và Nhà nước là khôi phục kinh tế, đi lên từ chiến tranh. Chủ trương phát triển kinh tế theo định hướng XHCN với mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp – hầu hết sinh hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo đó, kinh tế tư nhân bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, ngăn cấm việc mua bán trên thị trường. Nhà nước có độc quyền phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt. Bản chất của quan hệ sản xuất đã bị thúc đẩy phát triển quá nhanh ví dụ như phân phối sản phẩm độc quyền của nhà nước, tổ chức hình thức kinh tế chỉ do nhà nước đóng vai trò chủ chốt. Chúng ta đã ra sức vận động gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, mở rộng phát triển quy mô nông trường quốc doanh và các nhà máy xí nghiệp

lớn mà không tính đến trình độ SX đang còn thời kì quá thấp kém, chúng ta đã tạo ra những quy mô lớn và ngộ nhận là đã có“QHSX XHCN ” và coi rằng nó có khả năng “vượt trước” mở đường cho sự phát triển của LLSX. Thực tế những năm qua đã chứng minh quan niệm đó là sai lầm, sai lầm ở chỗ một số mặt của QHSX bị thúc đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời với trình độ thấp kém của LLSX .Đối với Việt Nam chúng ta với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thì tính tất yếu phải cải tạo XHCN phát triển công nghiệp quốc doanh, công nghiệp nặng chỉ coi như mục đích lâu dài phải tiến tới chứ không coi như một tất yếu trực tiếp phải cải tạo ngay. Song chúng ta đã bất chấp thực tế khách quan mà chỉ dựa vào vai trò tích cực của nhân tố chính trị tưởng rằng nhà nước chuyên chính vô sản, bằng những đường lối, chính sách và những hoạt động tích cực có thể tìm cách giải quyết tốt nhất trong sản xuất và đời sống xã hội, có khả năng cải tạo ra QHSX mới, mở đường cho LLSX phát triển nhưng trên thực tế chúng ta dã không thể làm được điều đó .Quan điểm QHSX đi trước là không đúng . Điều này đã được Đảng và Nhà nước ta khẳng định lại trong Đại hội V: “Chúng ta đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô, quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất; đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao cấp, chậm đổi mới các chính sách chế độ kìm hãm sản xuất; đã quan liêu, xa rời thực tế, không nhạy bén với những thay đổi của vận động xã hội, bảo thủ, trì trệ, lạc quan thiếu cơ sở.” Tiếp đó, nhận thức quan hệ sản xuất không trong chỉnh thể, cường điệu chế độ sở hữu, nhất là muốn nhanh chóng thiết lập chế độ công hữu với bất kỳ giá nào, coi sở hữu tư nhân nằm ngoài bản chất của chủ nghĩa xã hội cần phải nhanh chóng xóa bỏ; coi nhẹ quan hệ tổ chức - quản lý, quan hệ phân phối và nhất là hầu như không xem xét quan

hệ sản xuất trong lĩnh vực quan hệ trao đổi và quan hệ tiêu dùng; coi nhẹ động lực lợi ích cá nhân của người lao động. Đề cao một cách phiến diện yếu tố người về mặt số lượng, không chú ý chất lượng nguồn nhân lực và yếu tố vật của lực lượng sản xuất. Việc không quan tâm đến những điều kiện để phát huy ưu thế của phân công và hợp tác lao động - nên đã nóng vội mở rộng quy mô hợp tác xã khiến cho sức sản xuất của lao động giảm sút, kinh tế trì trệ. Chúng ta đã coi nhẹ quy luật giá trị, quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, từ đó tạo thành cơ chế kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. QHSX khác nhau ở những ngành sản xuất khác nhau, những vùng miền, địa bàn khác nhau (vùng đồng bằng, miền núi, vùng sâu, vùng xa...) với những trình độ lực lượng sản xuất rất khác nhau, tức là cân bằng quan hệ sản xuất chứ không thể ép buộc đi vào hợp tác xã, ăn chung làm chung. Từ đó, có thể nói do nhận thức chưa đúng đắn về mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX trong công cuộc xây dựng QHSX cũ và xây dựng QHSX mới. I.1.2. Hệ quả Nhà nước chú trọng phát triển công nghiệp nặng để xây dựng nền tảng kỹ thuật cho nền kinh tế trong khi công nghiệp nhẹ và nông nghiệp không được đầu tư đúng mức nên lãng phí rất lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã khan hiếm. Hệ quả là công nghiệp nặng không phát triển, một số sản phẩm công nghiệp nặng không có nơi tiêu thụ, nhà máy hoạt động không hết công suất. Việc biến các địa phương thành các đơn vị kinh tế tự chủ khiến nhà nước không thể liên kết các địa phương, phối hợp thế mạnh của các địa phương vào kế hoạch chung của quốc gia cho mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước. Bộ máy nhà nước cồng kềnh và thiếu hiệu quả, tệ quan liêu bàn giấy phổ biến.

Toàn bộ xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển, không lối thoát. Đảng và chính phủ ta nhanh chóng nhận thức được toàn bộ hệ quả này và đúc rút ra bài học từ sự sụp đổ hoàn toàn của Liên Xô khi thực hiện kế hoạch kinh tế tập trung – đó là phải hiểu cặn kẽ về mối tương thích QHSX và LLSX, do đó đã quyết định một cuộc cải cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. I.2. Sau Đại hội Đảng lần VI năm 1986 2.2.1.Công cuộc đổi mới - Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Thấu hiểu quá rõ những hạn chế với nền kinh tế tập trung cho con đường phát triển đất nước theo định hướng XHCN, Đảng rút ra cốt lõi vấn đề nằm ở chỗ làm sao để hòa hợp LLSX và QHSX, đầu tư vào cải tạo lại nền sản xuất xã hội để có những hình thức phù hợp hơn. Bối cảnh lúc nước ta quyết định tiến hành công cuộc đổi mới, trên thế giới cũng diễn ra nhiều biến đổi quan trọng vừa ảnh hưởng tới chúng ta, vừa gợi ra những bài học kinh nghiệm. Đó là công cuộc cải cách kinh tế Trung Quốc theo hướng thị trường - mở cửa bắt đầu diễn ra từ năm 1978 tạo ra thành tựu cải cách nổi bật mà Trung quốc thu được, đã được Đảng và Chính phủ quan tâm do có sự tương đồng nhiều mặt về các điều kiện kinh tế - xã hội giữa hai nước, thêm vào đó, sự sụp đổ của CNXH ở Liên xô và nhiều nước Đông âu là một bài học phản diện - bằng chứng về sự thất bại của con đường cải tổ theo kiểu "phủ định sạch trơn", sử dụng "liệu pháp sốc", giải quyết không đúng mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Đại hội Đảng lần VI đã thay đổi toàn diện, triệt để bộ mặt của đất nước hay có thể nói là bước ngoặt cho sự phát triển hùng mạnh của nước ta đến nay. Nội dung cốt lõi của tư duy đổi mới là bước chuyển từ quan niệm kinh tế xã hội chủ nghĩa là một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, phải được xây dựng ngay trong thời kỳ quá độ sang

khẳng định phải phát triển trong thời kỳ quá độ một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chê thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc đổi mới tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường đã thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế, làm cho các tiềm năng của xã hội được khai thác, nội lực được phát huy, sức mạnh của bên ngoài được huy động. Có thể nói, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam có QHSX tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của LLSX; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các nguồn lực nhà nước được phân bố theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế thị trường. Nhiều hình thức sở hữu, quản lý, phân phối nghĩa là đã có sự đầu tư cải tạo về bản chất của QHSX, tiến tới xây dựng QHSX hiện đại, tiến bộ với từng khu vực kinh tế với trình độ LLSX khác nhau. 2.2.2. Từ 1986 đến nay Từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn luôn khẳng định thực hiện nhất quán nền kinh tế nhiều thành phần với ý nghĩa nêu trên và được coi như một giải pháp chiến lược góp phần giải phóng và khai thác mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất. Chúng ta cần tiếp tục xác định đúng và tập trung giải quyết các mối quan hệ nền móng trong quá trình đổi mới. Đó là quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất phù hợp.

Đại hội IX đã khẳng định “ Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển LLSX , phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH , nâng cao đời sống của nhân dân , phát triển LLSX hiện đại gắn liền với xây dựng QHSX mới phù hợp trên cả ba mặt : sở hữu , quản lí , và phân phối ”. Có thể nói đây là quá trình đổi mới tư duy kinh tế của Đảng có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân, đơn vị, tập thể khai thác phát huy mọi tiềm năng, nội lực, tạo ra một tổng hợp lực thật sự cho việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đạt những thành tựu quan trọng trong công cuộc CNH, HĐH đất nước. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% dân số làm nông nghiệp, Việt Nam đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật, hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước đáp ứng sự nghiệp CNH, HĐH, tạo ra môi trường thu hút nguồn lực xã hội cho phát triển. Về tăng trưởng kinh tế, trong suốt 30 năm qua, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. Sau giai đoạn đầu đổi mới (1986-1990), với mức tăng trưởng GDP bình quân hằng năm chỉ đạt 4,4%, các năm tiếp theo tăng nhanh, cho đến 2019 tốc độ tăng trưởng GDP là 7,02% . Những nỗ lực đổi mới trong 30 năm qua đã giúp môi trường đầu tư liên tục được cải thiện, nhờ đó thu hút ngày càng nhiều hơn vốn đầu tư cho phát triển. Cơ cấu kinh tế của Việt Nam bước đầu chuyển dịch theo hướng hiện đại. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm khu vực nông nghiệp, tăng khu vực dịch vụ và công nghiệp. Cơ cấu lao động có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu có cải thiện đáng kể. Ba mươi năm đổi mới là một chặng đường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, theo nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn

cầu. Việt Nam đã thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế. Uy tín của nước ta trên trường quốc tế đang cải thiện rất nhiều khi chúng ta được chọn là địa điểm của Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên vào năm 2019. Tiếp đó năm 2020, nước ta vừa đảm nhiệm vai trò thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc vừa giữ vai trò là chủ tịch ASEAN. II.

Phương hướng tiếp tục phát triển đất nước dựa trên quy luật phù hợp mối quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất II.1. LLSX và QHSX trên thế giới trong bối cảnh hiện nay Lực lượng sản xuất ngày nay đã vượt xa so với thời Mác. Các Mác xây dựng học thuyết của mình trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ 2 (cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của điện năng), còn ngày nay loài người đang bước vào cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ tư, mở ra kỷ nguyên của trí tuệ nhân tạo. Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo và có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với mọi yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất. Thứ nhất, với đối tượng lao động, nhờ ứng dụng công nghệ trong cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tài nguyên và nhiên liệu, nguyên liệu đã phong phú hơn, giàu có hơn. Nếu căn cứ theo những yếu tố đầu vào của nền kinh tế công nghiệp dựa vào ...


Similar Free PDFs