Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội PDF

Title Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội
Author Ngọc Hà Nguyễn
Course Triết học Mác - Lênin
Institution Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Pages 14
File Size 225 KB
File Type PDF
Total Downloads 171
Total Views 543

Summary

Download Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội PDF


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN ĐÀO TẠO TIÊN TIẾN, CHẤT LƯỢNG CAO VÀ POHE

***

BÀI TẬP LỚN MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN ĐỀ 1:

PHÂN TÍCH VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI. CHỌN MỘT TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT VÀ PHÂN TÍCH THẾ GIỚI QUAN CỦA TÁC PHẨM ẤY TỪ GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC.

Họ và tên: Nguyễn Ngọc Hà MSV:

11218588

Lớp: Quản trị Marketing 63D

Hà Nội, 2021

I. LÝ LUẬN 1. Vấn đề cơ bản của Triết học Đối với triết học, giải quyết vấn đề không giống như các loại nhận thức khác. Nó phải bắt đầu bằng một câu hỏi mang tính nền tảng và đây là xuất phát điểm để có thể tiếp tục xử lý các vấn đề còn lại, đó là mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Để giải quyết bất kỳ vấn đề nào của trường phái triết học, chúng ta phải xem xét vấn đề sau: Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, tồn tại và tư duy. Nói một cách tổng quát, những vấn đề cơ bản của triết học được chia thành hai phương diện: bản thể luận và nhận thức luận, cũng có nghĩa nó trả lời cho hai câu hỏi lớn như sau: Mặt thứ nhất: Giữa ý thức và vật chất thì cái nào có trước, cái nào quyết định cái nào? Nói cách khác, khi tìm ra nguyên nhân cuối cùng của hiện tượng, sự vật, hay sự vận động cần phải giải thích, thì nguyên nhân vật chất hay nguyên nhân tinh thần đóng vai trò là cái quyết định. Việc đưa ra lời giải thích cho vấn đề này sẽ góp phần tạo nên bộ phận đầu tiên của triết học đó là lý luận về bản nguyên đầu tiên, về bản chất của thế giới này, hay được gọi với cái tên là “Bản thể luận”. Bản thể luận giải thích thế giới này như thế nào, nguồn gốc, bản chất và quy luật của nó ra sao. Mặt thứ hai: Con người có khả năng nhận thức được thế giới hay không? Hay diễn đạt theo một cách khác thì khi khám phá sự vật và hiện tượng, con người có dám tin rằng mình sẽ nhận thức được sự vật và hiện tượng hay không. Đây chính là phần gọi là “Nhận thức luận”, tức là lí luận về khả năng nhận thức của con người để khẳng định rằng con người có đang nhận thức chính xác về thế giới không. Hai hình thức bản thể luận và nhận thức luận chỉ ra đâu là đúng, đâu là sai, để từ đó con người biết được rằng cái gì là chân lý. Đây cũng là cơ sở, nền tảng để nghiên cứu sâu hơn các vấn đề cụ thể liên quan đến con người và xã hội. Đối với con người và xã hội, ta tiếp tục bàn luận về việc hình thành nên những tiêu chuẩn, giá trị về mặt đạo đức và về mặt thẩm mỹ. Đạo đức để con người biết

phân biệt cái thiện và cái ác, thẩm mỹ để cho con người thấy được cái đẹp và cái xấu. Tóm lại, ta sẽ biết được cái gì là thiện, cái gì là mỹ. Từ những phân tích trên, ta nhận thấy vai trò của triết học chính là giúp cho con người có được những quan niệm, tiêu chuẩn thế nào là chân-thiện-mỹ. Những quan điểm về chân-thiện-mỹ, về thế giới này _ thế giới của tự nhiên, con người và xã hội, trở thành nền tảng, chỗ dựa vững chắc và cho chúng ta những chuẩn mực, tiêu chuẩn về cuộc đời. Và những quan niệm đó được gọi với cái tên là “Thế giới quan” _ quan niệm về thế giới. Trên cơ sở những quan điểm, giá trị, tiêu chuẩn về chânthiện-mỹ đó, chúng ta xác định và hình thành những nguyên tắc trong nhận thức và hành động. Những nguyên tắc ta đề ra được gọi là “Phương pháp luận” _ những lí luận về phương pháp. 2. Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội Vai trò của triết học trong đời sống xã hội được thể hiện qua chức năng của nó như: chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục… Nhưng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận. 2.1. Chức năng thế giới quan Để nhận thức một cách đúng đắn về chức năng, vai trò của thế giới quan, trước hết ta phải hiểu được khái niệm, định nghĩa của nó. Mác – Lênin từng nói: “Thế giới quan là toàn bộ những quan niệm của con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó” (Phi, 2021). Ta có thể dễ dàng nhận thấy, trong quá trình tồn tại và phát triển, con người luôn có một mối quan hệ sâu sắc đối với thế giới xung quanh mình. Nhưng khác với loài vật vốn chỉ biết thích nghi một cách thụ động và chậm chạp thì con người vẫn không ngừng tìm cách biến đổi thế giới đang sống để có thể phù hợp với các yêu cầu, mục tiêu của bản thân. Trong suốt quá trình hình thành, biến đổi, nhận thức và

tiến hóa, con người luôn theo đuổi việc tìm tòi, tự đặt ra những câu hỏi: Nguồn gốc con người là từ đâu? Thế giới xung quanh là gì? Cái gì chi phối sự tồn tại và biến đổi của sự vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh? Con người và thế giới có mối quan hệ như thế nào?... Quá trình nảy sinh các nghi vấn về con người và thế giới khách quan đang tồn tại xung quanh và tìm ra câu trả lời cho từng nghi vấn ấy đã hình thành nên những quan niệm nhất định về thế giới, trong đó những yếu tố thuộc về cảm xúc và trí tuệ, tri thức và niềm tin đã hoà quyện vào nhau tạo thành một khối thống nhất. Và đó chính là thế giới quan. Thế giới quan đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của con người và xã hội loài người. Hoạt động của con người luôn chịu sự chi phối bởi một thế giới quan nhất định. Và dù muốn hay không thì con người cũng phải nhìn nhận thế giới và nhận thức về chính bản thân mình. Những yếu tố hình thành nên thế giới quan như tri thức, niềm tin, lý chí, tình cảm luôn có sự thống nhất với nhau và thống nhất trong các hoạt động của con người, cả trong hoạt động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn. Thế giới quan trở thành nhân tố định hướng hay có thể coi như một kim chỉ nam giúp con người nhận thức đúng hoặc không đúng về sự vật, hiện tượng. Nếu được dẫn dắt bởi thế giới quan mang tính khoa học, con người có thể xác định chính xác mối quan hệ giữa con người và đối tượng tác động. Trên cơ sở đó nhận thức đúng về quy luật vận động của đối tượng, từ đó có thể xác định đúng phương hướng, mục tiêu và cách thức hoạt động của con người. Và đương nhiên nếu theo chiều ngược lại, con người không thể xác định đúng mối quan hệ giữa con người và đối tượng, không nhận thức đúng quy luật của đối tượng và đồng nghĩa với việc không xác định chính xác mục tiêu, phương hướng và cách thức hoạt động, kết quả từ đó sẽ không như mong muốn. Như vậy thế giới quan đúng đắn là tiền đề phát triển cho con người và xã hội cũng như phát triển nhân sinh quan đúng đắn là tiêu chí quan

trọng về sự trưởng thành của mỗi cá nhân cũng như của mỗi cộng đồng xã hội. Có thể nói, thế giới quan đóng vai trò như là một “lăng kính”, để từ đó con người có thể xem xét, nhìn nhận thế giới và chỉ đạo hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Vai trò của thế giới quan trong đời sống xã hội được thể hiện trên các mặt sau: Một là, việc chỉ ra đúng những mối liên hệ chung giữa thế giới và vị trí của con người trong thế giới giúp con người xác định chính xác mục tiêu, phương hướng hoạt động của bản thân. Hay nói cách khác, thế giới quan là công cụ giúp cho con người có thể định hướng cuộc sống của bản thân bằng việc xác lập những mục tiêu, phương hướng hoạt động của riêng mình. Hai là, dựa vào các tri thức chung về thế giới và bản thân con người, cùng với niềm tin và tình cảm được củng cố, cải thiện trong thế giới quan, nó có thể chi phối hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người ở mức độ khá sâu sắc. Có thể nhận thấy rõ ràng, nếu hiểu đúng ý nghĩa cuộc sống, con người sẽ có ý chí và quyết tâm tích cực hoạt động vì sự tiến bộ của xã hội và của bản thân. Nhưng ngược lại, nếu ý nghĩa cuộc sống không được con người hiểu một cách đúng đắn thì sẽ làm giảm ý chí, cản trở tính chủ động, tích cực trong nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, thậm chí còn dẫn tới sự phá hoại hay sự thiếu trách nhiệm của con người đối với cộng đồng và xã hội. Trong thời đại ngày nay, khi các mối quan hệ xã hội trở nên ngày càng phức tạp, tính chủ động của con người càng được tôn trọng và tự do phát triển, cũng tức là vai trò của thế giới quan cũng ngày một được khẳng định và lớn mạnh hơn. Hình thành và phát triển thế giới quan khoa học là một đòi hỏi tất yếu của cuộc sống, đồng thời là một trong những tiêu chí trọng điểm, trọng yếu của quá trình hình thành nhân cách con người hiện nay. Triết học ra đời với tư cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đưa lại. Đó chính là chức năng thế giới quan của triết học.

2.2. Chức năng phương pháp luận Trước khi bàn đến vai trò của phương pháp luận, ta sẽ tìm hiểu nguồn gốc ra đời của nó. Trong hoạt động của con người (cả ý thức lẫn thực tiễn) có rất nhiều phương pháp được áp dụng vì thế quá trình lựa chọn sử dụng phương pháp có thể đúng hoặc sai. Nếu đúng, nó sẽ giúp ta thành công, còn nếu sai nó dẫn đến thất bại. Đối diện với vấn đề đó, nhu cầu phải nhận thức khoa học, nhận thức đúng đắn về phương pháp đã được hình thành và xuất hiện hay cũng chính là sự ra đời của phương pháp luận. Phương pháp luận là hệ thống các nguyên lý, quan điểm làm cơ sở cho việc xây dựng, lựa chọn, tìm tòi và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và thực tiễn nhằm đạt được mục đích để định sẵn. Có thể hiểu rằng, phương pháp luận có vai trò định hướng, gợi mở cho hoạt động về nhận thức và thực tiễn, còn phương pháp là cách thức, thao tác hoạt động cụ thể mà chủ thể phải tuân thủ và thực hiện nhằm đạt được mục đích. Phương pháp luận có ba cấp độ: - Phương pháp luận ngành: là phương pháp luận cho các ngành khoa học cụ thể. - Phương pháp luận chung: các quan điểm, nguyên tắc chung hơn cấp độ ngành, dùng để xác định phương pháp hay phương pháp luận của nhóm ngành có đối tượng nghiên cứu chung. - Phương pháp luận chung nhất (phương pháp luận triết học): khái quát các quan điểm, nguyên tắc chung nhất. Để lấy cơ sở xác định các phương pháp luận ngành, chung và các phương pháp hoạt động cụ thể của nhận thức và thực tiễn. Đối với nhận thức và thực tiễn của con người, phương pháp luận rất quan trọng khi làm cơ sở, nền móng, đóng vai trò định hướng cho việc xây dựng, tìm tòi và vận dụng các phương pháp nhằm tác động lên đối tượng để đạt được mục đích. Mà để hoạt động trong thực tiễn và nhận thức của con người đạt được hiệu quả thì cần phải có tri thức triết học cụ thể và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn xã hội. Thêm

vào đó, ta thấy rằng khi đã có mục đích thì phương pháp thực hiện như thế nào để đạt được mục tiêu đặt ra một cách hiệu quả nhất cũng cần được chú trọng. Tầm quan trọng của phương pháp là rất lớn trên hành trình đi tới thành công và phương pháp đó phải thật đúng đắn, giống như Bêcơn đã từng ví phương pháp như ngọn đuốc soi đường cho người đi trong đêm tối; Hêghen ví phương pháp là linh hồn của đối tượng hay như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đặc biệt coi trọng vai trò của phương pháp, nhất là trong hoạt động cách mạng. Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn ta không nên xem thường, đặt nhẹ phương pháp luận bởi nếu xem thường nó, ta sẽ rơi vào trạng thái hoang mang, mò mẫm, không thể sáng tạo, rất dễ mất phương hướng và không thể thực hiện được mục tiêu. Còn nếu ta coi trọng, đề cao phương pháp luận thì sẽ tránh được tình trạng sai lầm do chủ quan, duy ý chí và phương pháp tư duy siêu hình gây ra. Ngoài ra ta cũng cần lưu ý rằng, mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc lý luận về phương pháp sẽ phù hợp với một thế giới quan được đưa ra. Ví như tại thời kỳ “Xuân thu chiến quốc”: Nho giáo cho rằng bản chất con người là thiện – vậy đây là thế giới quan mà Nho giáo đặt ra. Phương thức trị quốc của Nho giáo là dùng đức trị - phương pháp luận. Trong khi đó thế giới quan mà Pháp gia đặt ra lại cho rằng bản chất con người là ác nên phương pháp luận ở đây - trị quốc phải dùng pháp trị. Tóm lại, để đạt được mục đích thì phương pháp luận đóng vai trò rất quan trọng trong việc định hướng, xây dựng và vận dụng các phương pháp cho con người trong cả nhận thức và thực tiễn. Đồng thời, ta cũng cần cân nhắc, xem xét vận dụng các phương pháp luận phù hợp cho từng quan điểm về thế giới quan. Với tư cách là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của con người trong thế giới đó, cùng với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, vai trò của triết học bên cạnh chức năng thế giới quan thì còn thực hiện chức năng phương pháp luận chung nhất.

Những chức năng nói trên được thực hiện ở các học thuyết triết học khoa học tạo nên khả năng cải tạo thế giới của học thuyết triết học đó, trở thành một công cụ hữu hiệu trong hoạt động chế ngự giới tự nhiên và sự nghiệp giải phóng con người của những lực lượng xã hội tiến bộ. Triết học với vai trò là thế giới quan và phương pháp luận chung nhất, nhưng không phải là một cái gì quá xa xôi, viển vông mà ngược lại, gắn bó hết sức mật thiết với cuộc sống, thực tiễn, là định hướng, chỉ đạo cho chúng ta trong hành động. Ngoài ra, nhờ có kết quả của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại mà loài người chúng ta bước vào thế kỉ XXI với những vấn đề nhận thức mới rất cơ bản và sâu sắc. Đứng trước tình hình đó, triết học một lần nữa khẳng định được vai trò của mình khi là cơ sở lý luận, phương pháp luận cho các phát minh khoa học, cho sự truyền bá tri thức khoa học hiện đại. Cho dù có tự giác hay không thì khoa học hiện đại phát triển vẫn phải dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận. Có thể nói, triết học có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội và ngày càng được đổi mới, phát triển và nâng cao. II. VẬN DỤNG 1. Thế giới quan là gì? Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm về thế giới và về vị trí con người trong thế giới đó. 2. Thế giới quan trong tác phẩm điện ảnh Mỹ “The Seventh Seal” (1957) a. Tóm tắt tác phẩm Bộ phim điện ảnh Mỹ “The Seventh Seal” _ Phong ấn thứ bảy kể về Antonius Block, một hiệp sĩ trung cổ, trở về quê hương mình sau khi tham gia chiến tranh và phát hiện ra đất nước mình đang bị nạn dịch hạch tàn phá khủng khiếp. Một ngày kia, Block gặp Thần Chết – người đến “đón” ông đi. Cố gắng trì hoãn thời gian để quay trở về đoàn tụ cùng người vợ của mình, Block đã thách

Thần Chết đấu cờ vua cùng mình. Trận cờ không diễn ra liên tục mà ngắt quãng nhiều lần, trong thời gian đó, Block vẫn tiếp tục cuộc hồi hương của mình. Trong chuyến đi đó, ông đã tận mắt nhìn thấy số phận con người quằn quại trong đau khổ của dịch bệnh, của những kẻ sùng đạo. Ông bắt đầu nghi ngờ về sự tồn tại của Chúa và ý nghĩa thực sự của cuộc sống của mình. b. Thế giới quan của tác phẩm dưới góc độ triết học Quan niệm về con người trong bộ phim được truyền tải thông qua nhân vật chính là chàng hiệp sĩ Antonius Block. Có thể nhận thấy trong bộ phim, bản chất con người được diễn tả là hướng thiện tuy nhiên lại sống một cách thờ ơ, khủng hoảng niềm tin nơi Chúa hay đúng hơn là mất niềm tin vào chính bản thân mình và lo sợ khi đối mặt với ranh giới giữa sự sống và cái chết. Vậy Antonius Block thực chất là ai? Mô tả một cách chính xác và cô đọng nhất về Block thì ta có thể hình dung như sau: Một hiệp sĩ trở về từ Thập Tự Chinh tìm thấy một nhà thờ thô sơ vẫn mở cửa và đi xưng tội ở đó. Nói chuyện với một nhân vật trùm đầu được nhìn thấy hờ qua vỉ sắt, anh ta trải lòng: "Sự thờ ơ của tôi đã khiến tôi mất đi. Tôi đang sống trong một thế giới của những bóng ma, một tù nhân của những giấc mơ. Tôi muốn Chúa đưa tay ra, hiển thị khuôn mặt của anh ấy, hãy nói chuyện với tôi”. Anh ta kêu lên trong bóng tối nhưng không có ai ở đó. Nhân vật trùm đầu quay lại, và được tiết lộ là Thần chết, người đã đi theo hiệp sĩ trong cuộc hành trình trở về nhà của anh ta. Block vốn là “người không có Chúa”, người có một cuộc đời bi kịch mà câu chuyện về cuộc đời ấy được thuật lại trong “khúc gian tấu”. Block “không có Chúa” cho đến khi chàng đơn độc giáp mặt với cái chết, không hy vọng, cũng không còn ảo tưởng. Thế nhưng chàng đồng thời cũng là kẻ sống “với Chúa” bởi vì chàng liên tục bị dày vò, dằn vặt bởi những vấn đề về đức tin. Trong suốt bộ phim này, chàng Hiệp sĩ không chỉ bị ám ảnh bởi cái chết mà còn bởi Chúa. Ta sẽ sớm nhận ra một điều: chàng chơi cờ với thần Chết “không phải để cứu vãn đời sống,” mà với hy vọng trong quá trình chơi ấy, chàng

có thể hiểu được đôi điều về Chúa. Block không những là hình ảnh minh họa cho con người _ kẻ phải đối mặt đơn độc với cái chết trong đấu trường của đời sống mà chàng dường như còn phản ánh những dằn vặt về đức tin _ là một Hiệp sĩ nhưng chàng đang hoài nghi đức tin của chính mình. Niềm tin của Block là một quá trình khổ đau và kịch tính bởi chàng tin vào “những điều được hy vọng” và “những thứ không nhìn thấy được”. Block “muốn có tri thức,” chàng muốn nhận biết Chúa bằng giác quan, muốn nhìn thấy người, chạm vào người. Chàng hỏi Thần chết nhưng thật ra là đang tự vấn chính mình: “Làm sao chúng ta có thể tin vào những kẻ có đức tin trong khi chúng ta không thể đặt niềm tin nơi bản thân mình? Điều gì sẽ xảy đến với những người trong chúng ta, những người muốn tin nhưng lại không thể tin? Và những kẻ không muốn tin mà cũng chẳng thể tin, rồi họ sẽ trở thành gì?”. Quan niệm về nhân sinh cũng được đề cập một cách sâu sắc trong bộ phim này khiến người xem phải dành thời gian nghiên cứu, nghiền ngẫm và chiêm nghiệm về cuộc đời. Đời người sẽ phải trải qua và nếm trải sự khổ đau, sung sướng, phúc đức và cả tai họa. Ở bộ phim này ta có thể thấy, con người đã phải chạy trốn cái chết bằng cách từ bỏ vùng dịch hạch hoành hành đi lánh nạn ở các vùng lân cận. Và ngay cả như thế thì với con người ở thế kỷ thứ 14, khi khoa học chưa phát triển người ta tin là bị Tử Thần lấy đi mạng sống. Tử Thần không tha ai hết, từ hiệp sĩ sống trong lâu đài đến người đi trình diễn múa rối dạo. Con người sinh ra ai cũng có số mệnh riêng nhưng chung quy lại con người vẫn chịu sự chi phối của quy luật sinh – tử, không ai có thể chống lại quy luật tất yếu ấy và người ta dễ mong manh, hoảng loạn khi đứng giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Theo quan điểm trong phim, người trong cơn đại dịch The Black Death cho rằng Chúa trừng phạt loài người cho nên Tử Thần lấy đi mạng sống của người ta quá nhiều mà Chúa vẫn im lặng không lên tiếng. Nhưng về bản chất không có sự

trừng phạt nào ở đây cả mà chỉ đơn thuần là con người chưa ý thức được sự lây lan không kiểm soát của dịch bệnh đã khiến ngày càng nhiều người ngã xuống, người người phải trả giá bằng tính mạng của mình. Vai trò của con người trong cuộc đời mà bộ phim muốn truyền tải không phải điều gì quá vĩ đại, to lớn hay vượt qua được những nghịch cảnh của cuộc sống. Mà ở đây muốn nhắc tới việc sống một cuộc đời đáng sống và ý nghĩa, tin tưởng vào chính bản thân mình, sống mà không cần nhờ cậy, dựa vào sự che chở của thế lực thần thánh (Chúa Trời) hay không phải tính mạng phụ thuộc vào tay Thần Chết mà chỉ đơn thuần đây là quy luật tất yếu của con người từ sinh ra. Để từ đó con người sống có ích, tin tưởng vào bản thân và bình tĩnh, thanh thản đối diện với vòng quay luân hồi của sự sống, giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Trong phim, nhân vật chính, hiệp sĩ Antonius Block, trở về sau bảy năm tham gia cuộc Thập Tự Chinh giữa lúc Thụy Điển đang bị cơn đại dịch hoành hành dữ dội. Block gặp Tử Thần, rủ ông ta đánh cờ với niềm tin ngây thơ rằng bằng kỹ năng và kỷ luật có thể làm được điều gì đó để ngăn cản cái tất yếu xảy ra đối với con người: cái chết. Nhưng dù cho thần Chết có kinh khủng thế nào đi nữa thì một khi đã chấp thuận chơi thì phải chơi theo luật và chấp nhận kết quả. Antonius Block không mất thời gian và nêu rõ thời hạn mà mình muốn: “Điều kiện là ta sẽ tiếp tục sống chừng nào ta chưa đầu hàng ngươi. Nếu ta thắng, mi phải từ bỏ việc bắt ta. Đồng ý?” Hỏi thế thôi nhưng Block biết rõ kết cục chàng sẽ không thể thắng. Tất cả những gì chàng muốn là có thêm thời gian trì hoãn. Một sự trì hoãn mong manh là tất cả những gì chàng hy vọng. Chàng đã dùng cách kết hợp giữa hai quân cờ bishop and knight, giám mục và hiệp sĩ tượng trưng cho tôn giáo và quân đội, đánh bại Tử Thần. Vì bị thua Tử Thần gia hạn thời gian sống cho Block, bảo rằng hễ lần tới gặp nhau, lại đánh cờ nếu Block bị thua thì phải dâng mạng sống. Ở lần kế tiếp, tuy bị thần Chết chơi xấu nhưng chàng vẫn không nản lòng. Trên thực tế, đến những giờ khắc cuối cùng, chàng đã tìm thấy một niềm vui được

hồi sinh đó là sự sống. Chỉ riêng việc còn được sống đã làm dâng lên trong chàng một hoan lạc mênh mông. Sống, có nghĩa là được sở hữu thân thể của mình, là được cảm nhận khoái cảm từ thịt da thuộc về ta. Block ngắm nhìn bàn tay mình, cảm nhận nó, cử động nó và như nhận thấy một khả...


Similar Free PDFs