01.PLT01H. Phạm Thị Khánh Linh.23A4020225. Đ4 PDF

Title 01.PLT01H. Phạm Thị Khánh Linh.23A4020225. Đ4
Course Triết học Mác Lênin
Institution Học viện Ngân hàng
Pages 21
File Size 304.3 KB
File Type PDF
Total Downloads 263
Total Views 887

Summary

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊHọc phần:ĐỀ TÀI : ..................................................................Giảng viên hướng dẫn : .................................... Sinh viên thực hiện : .................................... Lớp : .................................... Mã sinh viên ...


Description

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Triết học Mác-Lênin Học phần:

ĐỀ TÀI:

Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ý nghĩa của nó với việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay

Giảng viên hướng dẫn : Sinh viên thực hiện : Lớp : Mã sinh viên :

Đào Thị Hữu Phạm Thị Khánh Linh K23CLC-KTA

. 23A4020225

Hà nội, ngày tháng năm 2020

MỤC LỤC MỞ ĐẦU…………………………………………………………………......1 NỘI DUNG PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG 1.1 . Nội dung phương pháp luận - Khái niệm chất và lượng……………………………………………3 - Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất…………………………………………………………4 1.2 . Ý nghĩa phương pháp luận……………………………………………5 PHẦN II: LIÊN HỆ THỰC TẾ VÀ LIÊN HỆ BẢN THÂN 2.1. Liên hệ thực tiễn……………………………………………………….6 2.2. Liên hệ bản thân………………………………………………………..9 PHẦN III: KẾT LUẬN……………………………………………………...11 TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………...11

1

MỞ ĐẦU Quy luật chuyển đổi giữa lượng và chất và chất là quy luật cơ bản, phổ biến của phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Mối quan hệ giữa lượng và chất là tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy. Mơ ước của mỗi học sinh khi còn đi học là có thể đậu vào trường đại học mình mong muốn hay là được bước vào môi trường đại học để được nghiên cứu, học tập, được đào tào để có kĩ năng cho công việc sau này. Thế nhưng đậu đại học là một chuyện, học đại học lại là chuyện khác. Đối với nhiều bạn học sinh sau khi trở thành sinh viên thì cảm thấy bỡ ngỡ và không còn giữ được phong độ như xưa nữa do môi trường đại học quá khác so với môi trường phổ thông. Sau gần một năm học đại học em cảm thấy nếu cứ tiếp tục học tập bằng phương pháp truyền thống thì sinh viên không thể tồn tại trong môi trường đại học được, thầy cô chỉ là người hướng dẫn và chính bản thân mình phải tự tìm tòi và học hỏi. Em chọn đề tài này với mong muốn có thể giúp đỡ một phần nào cho các bạn sinh viên nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và quy luật lượng – chất nói riêng, từ đó có thể giúp cho chúng ta hình dung được phương thức học tập mới phù hợp với bản thân và rút ra nhiều kinh nghiệm cho mình trong việc học tập. Mục đích của bài luận là đưa một phần môn triết học ứng dụng vào đời sống: quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất. Giúp cho việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên hiện nay. Để đạt mục đích đó đề tài cần giải quyết những nội dung sau: phân tích và làm rõ nội dung, ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng - chất, liên hệ thực

2

tiễn, liên hệ bản thân. Để từ đó đưa ra những phương pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập của sinh viên đại học. Đối tượng nghiên cứu là quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Phạm vi nghiên cứu là sinh viên đại học trong giai đoạn hiện nay. Cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin về quy luật lượng chất. Đề tài sử dụng phương pháp luận biện chứng duy vật với các phương pháp như: thống nhất logic với lịch sử, phân tích tổng hợp, khái quát hóa và hệ thống hóa. Ý nghĩa lý luân: l Giúp chúng ta hiểu rõ hơn về quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ý nghĩa thực tiễn: Nhằm vận dụng quy luật lượng chất vào việc nâng cao chất lượng học tập của sinh viên.

3

NỘI DUNG Phần 1. Phần lý luận 1.1. Nội dung phương pháp luận

a) Khái niệm chất và lượng Chất là khái niệm dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, yếu tố tạo nên sự vật, hiện tượng và giúp phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác. Đặc điểm cơ bản: thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: Mỗi sự vật, hiện tượng không phải chỉ có một chất mà có nhiều chất. Sự vật có nhiều chất tùy theo góc độ xem xét, ví dụ như cốc có nhiều loại chất chất liệu: sứ, nhựa, giấy… Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời. Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành. Ví dụ với C, H, O thì ta khi chúng liên kết tạo ra chất khác so với khi các nguyên tố N, O khi chúng liên kết. Ngoài ra, kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử cacbon khác nhau nên chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng còn than chì thì rất mềm. Lượng là khái niệm dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển, các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng, ở tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Đặc điểm cơ bản của lượng là tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định. Trong sự vật, hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố quy định bên trong, có

2

lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài. Trong tự nhiên và phần nhiều trong xã hội, lượng

4

có thể đo, đếm được nhưng trong một số trường hợp chỉ có thể nhận biết được bằng năng lực trừu tượng hóa. Thông số chính xác: Số lượng (1,2,3…); kích thước (m, m2); thể tích (lít, m3), …. Thông số trừu tượng: IQ, EQ, HDI, … *) Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất Mối quan hệ giữa các khái niệm cấu thành quy luật chỉ ra rằng, mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Chúng tác động biện chứng lẫn nhau. Qúa trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tang hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nhất định (độ) mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Như vậy, sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất đổi và kết quả là sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới ra đời. Độ là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất và quy định lẫn nhau giữa chất với lượng; là giới hạn tồn tại của sự vật, hiện tượng mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa dẫn đến sự thay đổi về chất. Điểm giới hạn mà tại đó, sự thay đổi về lượng đạt tới phá vỡ độ cũ, làm cho chất của sự vật, hiện tượng thay đổi, chuyển thành chất mới, thời điểm mà tại đó bắt đầu xảy ra bước nhảy, gọi là điểm nút. Độ được giới hạn bởi hai điểm nút và sự thay đổi về lượng đạt tới điểm nút trên sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Sự thống nhất giữa lượng mới với chất mới tạo ra độ mới và điểm nút mới. Bước nhảy là khái niệm để chỉ sự chuyển hóa cơ bản về chất của sự vật hiện tượng do những thay dổi về lượng trước đó gây ra, là bước ngoặt cơ bản trong sự biến đổi về lượng. Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, hiện tượng.

2

Sự vận động của sự vật, hiện tượng diễn ra, lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất, tạo nên một đường dài thay thế nhau vô tận sự vật, hiện tượng cũ bằng sự vật, hiện tượng mới. Quy luật lượng đổi – chất đổ

5

còn nói lên chiều ngược lại, nghĩa là khi chất mới đã khẳng định mình, nó tạo ra lượng mới phù hợp để có sự thống nhất mới giữa chất với lượng. Quy luật chỉ ra rằng quan hệ lượng – chất là quan hệ biện chứng. Những thay đổi về lượng chuyển thành những thay đổi về chất và ngược lại; chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt dễ biến đổi hơn. Lượng biến đổi, mâu thuẫn với chất cũ, phá vỡ độ cũ, chất mới hình thành với lượng mới; lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến độ nào đó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó. Qúa trình tác động qua lại lẫn nhau giữa lượng và chất tạo nên sự vận động liên tục. Căn cứ vào quy mô và nhịp độ của bước nhảy có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ. Bước nhảy toàn bộ làm cho tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố… của sự vật, hiện tượng thay đổi. Bước nhảy cục bộ làm thay đổi một số mặt, một số yếu tố, một số bộ phận… Sự phân biệt bước nhảy toàn bộ hay cục bộ chỉ có ý nghĩa tương đối, chúng đều là kết quả của quá trình thay đổi về lượng. Căn cứ vào thời gian sự vật thay đổi về chất và dựa trên cơ chế của sự thay đổi đó, có bước nhảy tức thời và bước nhảy dần dần. Bước nhảy tức thời: làm chất của sự vật, hiện tượng biến đổi nhanh chóng ở tất cả các bộ phận của nó. Bước nhảy dần dần: là quá trình thay đổi về chất diễn ra bằng cách tích lũy dần dần những yếu tố của chất mới và loại bỏ dần các yếu tố của chất cũ; trong trường hợp này sự vật, hiện tượng biến đổi chậm hơn Mọi đối tượng đều là sự thống nhất của hai mặt đối lập chất và lượng, những sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn đến sự thay đổi căn bản về chất của nó thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tiếp tục tác động trở lại duy trì sự thay đổi của lượng. Quy luật chỉ ra cách thức của sự vận động, phát triển 1.2.

Ý nghĩa phương pháp luận

2

Nói chung, về mặt nhận thức; ta cần xem xét cả mặt chất và mặt lượng của sự vật, xem xét sự biến đổi về lượng của sự vật dẫn đến sự biến đổi về chất như thế nào. Về mặt thực tiễn, từng bước tích lũy về lượng để tạo tiền đề cho sự

6

thay đổi về chất, biết kịp thời thực hiện bước nhảy và trong trường hợp không muốn thay đổi chất của sự vật thì phải giữ độ. Thứ nhất, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết tích lũy về lượng để có biến đổi về chất; không được nôn nóng cũng như không được bảo thủ. Thứ hai, khi lượng đã đạt đến điểm nút thì thực hiện bước nhảy là yêu cầu khách quan của sự vận động của sự vật, hiện tượng. Cần khác phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác thực tiễn. Thứ ba, sự tác động của quy luật này đòi hỏi phải có thái độ khách quan, khoa học và quyết tâm thực hiện bước nhảy. Không những cần xác định quy mô và nhịp điệu bước nhảy một cách khách quan, khoa học, chống giáo điều, rập khuôn, mà còn phải có quyết tâm và nghị lực để thực hiện bước nhảy khi điều kiện đã chin muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực hiện kịp bước nhảy khi điều kiện cho phép, chuyển thay đổi mang tính tiến hóa sang thay đổi mang tính cách mạng. Thứ tư, phải biết lựa chọn phương pháp phù hợp để tác động vào phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật của chúng. Phần 2. Vận dụng 2.1. Liên hệ thực tiễn: Quy luật lượng chất trong quá trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên. Sự khác nhau giữa việc học ở phổ thông và đại học: So với học ở phổ thông thì khối lượng kiến thức ở cấp độ đại học tăng lên một cách đáng kể. Ví dụ, nếu học phổ thông thì một môn học sẽ kéo dài trong một năm, vì thế khối lượng kiến thức được chia đều ra kiến học sinh dễ dàng tiếp nhận hơn. Trong khi ở bậc đại học, các môn học đi từ tổng quát cho đến chuyên sâu, mỗi môn theo từng chuyên ngành, mỗi ngành lại có mỗi môn học chủ đạo, mỗi môn chuyên ngành lại có hàng tá cuốn sách, mỗi môn thì có rất nhiều sách với nhiều nhà xuất bản thày cô chỉ sử dụng một vài quyển sách

2

chọn lọc để dạy nhưng kiến thức thì phải “tự học nhiều hơn” và chỉ khoảng 9 đến 18 buổi học. Rõ ràng sự tăng lên đáng kể về số lượng kiến thức sẽ khiến học viên

7

cao học gặp những khó khăn đặc biệt là sinh viên năm nhất khi chưa quen với cách thức học tập ở đại học. Chính vì thế học cao học cần phải chủ động tìm hiểu và sãn sàng để thích nghi với sự thay đổi này. Không chỉ khác biệt về khối lượng kiến thức, học Đại và phổ thông còn có sự khác biệt về sự đa dạng kiến thức. Tiếp đến là các nhiệm vụ trong học tập, nếu học phổ thông hoạt động chủ yếu là ở trên lớp còn học Đại học còn đi kiến tập, thực tập, thực tế, làm tiểu luận, luận văn... Muốn giỏi thật sự thì người học cần chủ động đọc rất nhiều loại tài liệu khác nhau, song song đó phải chủ động tìm kiếm các bài tập thực tế, các phương pháp thực hành để cụ thể hóa lý thuyết thành kỹ năng. Đây là cơ hội cũng nhưng cũng là thách thức cho các sinh viên. Ở đây là sự khác nhau về bản chất chứ không chỉ là sự thay đổi về hình thức, bởi vậy có thể nói sự chuyển đổi từ phổ thông lên Đại học cũng giống như quá trình biến đổi từ lượng thành chất. Chính vì vậy mà sinh viên cần phải thay đổi nếp sống mới sao cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại, phù hợp với yêu cầu đại học. Bạn cần phải cố gắng rất nhiều vì tương lai của chính mình. Tri thức là vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về thể xác, tinh thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để phục vụ cho bản thân sau là đóng góp cho sự phát triển của xã hội, của đất nước. Quá trình tích lũy tri thức, kinh nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng, điều kiện… của mỗi người. Quá trình tích lũy tri thức của con người cũng không nằm ngoài quy luật lượng chất. Bởi vì, dù ít hay nhiều dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất. Quá trình biến đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong phú. Trong suốt 12 năm học, mỗi học sinh đều phải tích lũy khối lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt qua. Vượt qua kì thi vô cùng quan trọng, việc vượt

2

qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đầy đủ về lượng, tạo nên bước nhảy

8

vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển thành sinh viên. Cũng giống như ở phổ thông, để có được tấm bằng đại học thì sinh viên cũng phải tích lũy đủ các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc đại học có sự khác biệt về chất so với học phổ thông. Sự khác biệt nằm ở chỗ, sinh viên không chỉ tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần, thầy cô không còn đọc cho ta chép như cấp phổ thông mà phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên những kĩ năng mà giảng viên đã cung cấp. Ở bậc đại học, việc học tập của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễn ra dưới nhiều hình thức đa đạng và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, nghiên cứu, tu duy nhiều hơn, đòi hỏi phải siêng năng hơn. Từ sự thay đổi về chất do sự tich lũy vê lượng trước đó tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ, kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng sinh viên lên tầm tri thức cao hơn. Quá trình tích lũy các học phần của sinh viên chính là độ, các kì thi chính là điểm nút và việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy, trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là tốt nghiệp đại học. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng tạo nên động lực không nhỏ cho sự phát triển của xã hội. Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn, không chỉ với bản thân sinh viên mà còn rất có ý nghĩa với công tác quản lý và đào tạo. Hiện nay, kiểu học tín chỉ đã tạo điều kiện cho những sinh viên cảm thấy mình đủ năng lực có thể đăng kí học vượt để ra trường sớm. Tuy nhiên cũng có không ít sinh viên đăng kí học vượt nhưng không đủ khả năng để theo, dẫn đến hậu quả là phải nợ môn rất nhiều. Điều này cũng có nghĩa là các sinh viên đó chưa tích lũy đủ về lượng đến giới hạn điểm nút mà đã thực hiện bước nhảy, đi ngược lại với quy luật lượng – chất, và hậu quả tất yếu là sự thất bại. Và thực tế trong nhiều năm qua, việc chạy theo bệnh thành tích chính là thực

2

tế đáng báo động bởi vì mặc dù sự tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo điều kiện” để thực hiện “thành công” bước nhảy, tức là không

9

học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng. Kết quả là trong nhiều năm liền, đã xuất hiện rất nhiều những lớp người không “lượng” mà cũng chẳng có “chất”, dẫn đến những vụ việc rất vô lí như học sinh đi học không viết nổi tên mình mà vẫn được lên lớp, chỉ vì nếu cho ở lại sẽ làm ảnh hưởng đến thành tích phổ cập giáo dục của trường. 2.2. Liên hệ bản thân: Giai pháp để nâng cao chất lượng ở đại học Việc áp dụng đúng đắn quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất vào các hoạt động trong đời sống là vô cùng quan trọng, đặc biệt trong hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh, sinh viên. Là một sinh viên, việc xác định động cơ học tập cho bản thân là vô cùng quan trọng. Khi làm bất cứ việc gì, chúng ta đều cần xác định một thái độ rõ ràng, đúng đắn và học cũng vậy. Cần hiểu rõ, mình học để làm gì, học như thế nào, mục tiêu cho việc học đó… Trong môi trường đòi hỏi tính tự giác thì động cơ chính là mồi lửa châm ngòi cho sức mạnh, niềm đam mê học tập cho mỗi chúng ta. Niềm đam mê sẽ xác định hành động và quy định thái độ của con người. Có thể nói, hình thành động cơ học tập đúng đắn là tính chất quyết định nội dung, hình thức, phương hướng học tập tốt. Sau khi hình thành ước mơ để ta tập trung học tập thì bước tiếp theo là xác định phương pháp học đúng đắn. Ta có thể tìm tòi và hỏi các thế hệ đi trước các phương pháp học tập hiệu quả đối với bản thân mình. Với lượng kiến thức vô cùng lớn ở đại học thì ta phải học hỏi dần dần, học từ dễ đến khó để có thể hiểu thấu được bài học. Những kiến thức ở bậc đại học là kiến thức ta cần nắm chắc vì nó sẽ giúp ích rất nhiều trong công việc sau này và chúng ta cần thời gian để làm điều đó. Do kiến thức ở đại học là kiến thức chuyên môn nên rất khó, sẽ lâu thấy sự tiến bộ. Đơn giản vì ta chưa cung cấp đủ lượng kiến thức cần thiết để có thể thấu hiểu được tri thức ấy. Có nghĩa là ta đang trong khoảng giới hạn (độ) của tri thức ấy. Vậy nên ta cần kiên trì học hỏi, không được chán nản để có thể cung cấp đủ lượng làm

10

chuyển hóa chất. Lập kế hoạch cụ thể cho từng công việc trong một ngày một cách rõ ràng để dễ dàng và toàn diện hơn. Xây dựng kế hoạch học tập cần phải dựa trên thời gian mình có và khả năng thực hiện được. Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp ta hiểu được rằng, mặc dù cũng mang tính khách quan, nhưng quy luật xã hội lại diễn ra thông qua các hoạt động có ý thức của con người; do đó khi đã tích luỹ đầy đủ về lượng phải quyết tâm tiến hành bước nhảy, kịp thời chuyển những thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất; chuyển những thay đổi mang tính tiến hoá sang thay đổi mang tính cách mạng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì trệ, hữu khuynh thường biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là thay đổi đơn thuần về lượng. Là sinh viên cần phải nắm chắc mọi cơ hội để có thể thành công. Quy luật lượng đổi-chất đổi giúp nhận thức được rằng, sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật, hiện tượng. Do đó, trong hoạt động của mình, phải biết tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật trên cơ sở hiểu rõ bản chất, quy luật các yếu tố tạo thành sự vật đó. Sự thành công của một sinh viên thì còn phụ thuộc vào các kĩ năng mềm trong cuộc sống mà nhà trường không dạy chẳng hạn như nghệ thuật giao tiếp, kĩ năng thuyết trình,… hay quan trọng cả là kĩ năng làm việc nhóm, mang hành trang tích cực vào đời, biến tri thức lĩnh hội thành sản phẩm trí tuệ đích thực. Như thế mới giúp ta phát triển toàn diện được. Trên đại học, các bạn cần chủ động hơn trao việc học, đừng ngần ngại nêu lên thắc mắc với giảng viên cũng như tranh luận quan điểm để tìm ra hướng giải quyết tốt nhất. Một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần được phát triển ở trường đại học là khả năng lắng nghe, hãy dành quãng thời gian học đại học để phát triển khả năng lắng nghe và tổng hợp ý kiến. Giải trí cũng góp phần quan trọng không kém, vui chơi đúng lúc đúng thời điểm sẽ giúp tâm lý ta thoải mái, nâng cao tình thần từ đó tiếp thu tốt hơn. Các hoạt động do đoàn thanh niên tổ chức, nhà trường phạt động, sinh viên cần hưởng ứng và tham gia tích cực. Tham gia các hoạt động thể thao, tham gia các câu...


Similar Free PDFs