Lê Thu Trang - Tiểu luận Triết học PDF

Title Lê Thu Trang - Tiểu luận Triết học
Author Trang Lê
Course Phylosophy
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 18
File Size 200 KB
File Type PDF
Total Downloads 352
Total Views 752

Summary

MỤC LỤCLỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................1. PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG.....................................................................1.1ái niệm phủ định, phủ định biện chứng...........................................


Description

MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................2 1. PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG.....................................................................3 1.1. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng..................................................3 1.2. Các đặc trưng cơ bản của Phủ định biện chứng.........................................3 1.3. Quy luật phủ định của phủ định...................................................................4 1.4. Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng về phủ định..................5 2. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH TRONG VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY...........................................6 2.1. Giá trị truyền thống.......................................................................................6 2.1.1.Khái niệm...................................................................................................6 2.1.2.Các giá trị truyền thống của Việt Nam......................................................7 2.2. Vai trò của phép biện chứng của phủ định trong việc gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay...........8 2.2.1.Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ..............................................................9 2.2.2.Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ta trong bối cảnh hiện nay chính là quá trình bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa........................................................................................10 2.2.3.Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay cần phải chống hai khuynh hướng sai lầm: khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng phủ định sạch trơn đối với truyền thống văn hóa của dân tộc................................12 2.2.4.Kế thừa và phát triển sáng tạo truyền thống văn hóa dân tộc gắn liền với quá trình mở rộng giao lưu, học hỏi và tiếp nhận những giá trị văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới...........................................................................13 KẾT LUẬN.............................................................................................................16 TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................17

1

LỜI NÓI ĐẦU Toàn cầu hóa là một trong những xu hướng nổi bật và tất yếu của xã hội hiện đại ngày nay. Mọi quốc gia trên thế giới đều đang có những thay đổi trong những chính sách kinh tế, chính trị, ngoại giao và tất cả các khía cạnh khác của đất nước để tận dụng triệt để, hiệu quả những tác động tích cực của xu hướng này. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam đã và đang không ngừng nỗ lực hội nhập, giao lưu với bạn bè quốc tế. Việc trở thành thành viên của hàng loạt các tổ chức thế giới như APEC, WTO hay ASEAN đã thể hiện một Việt Nam đang ngày càng chủ động hội nhập sâu hơn vào tiến trình toàn cầu hóa của nhân loại với mục tiêu hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước, phấn đấu tiến xa hơn trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, bất cứ một sự thay đổi nào cũng có tính hai mặt. Một mặt, toàn cầu hóa sẽ đem lại những điều kiện thuận lợi để phát triển, xây dựng kinh tế xã hội. Nhưng mặt khác, nó cũng đem lại nhiều nguy cơ, nổi trội và đáng quan tâm trong đó là nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc. Một câu hỏi – đồng thời cũng là một thử thách – mang tính thời sự và vô cùng thiết thực được đặt ra là: Làm thế nào để bảo tồn, kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay? Tất nhiên một chiến lược phát triển và hội nhập văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc không thể đóng cửa nền văn hóa, mà chủ động chọn lọc nhưng tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc nước mình. Thách thức mang tính thời đại này có thể được giải quyết từ góc nhìn của triết học với phương pháp luận phủ định biện chứng. Đó là lí do tôi chọn đề tài: “Phép biện chứng về phủ định và vận dụng phân tích việc kế thừa và phát triển sáng tạo các giá trị tuyền thống trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”. Cuốn tiểu luận này tập trung vào phân tích phép phủ định biện chứng và ứng dụng thực tiễn

2

của nó trong vấn đề duy trì và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. 1. PHÉP PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG 1.1. Khái niệm phủ định, phủ định biện chứng Xuyên suốt lịch sử triết học, tùy theo thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và trường phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ định. Theo quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lenin, trong thế giới, các sự vật, hiện tượng sinh ra tồn tại phát triển rồi mất đi, được thay thế bằng sự vật, hiên tượng khác; thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của cùng một sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động phát triển của nó. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật và sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định. Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. 1.2. Các đặc trưng cơ bản của Phủ định biện chứng Theo quan niệm của các nhà kinh điển, phủ định biên chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khái quát và tính kế thừa. Thứ nhất, phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, tạo khả năng ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đồng thời, mỗi sự vật có một phương thức phủ định riêng tùy thuộc vào những thuộc tính và cách giải quyết mâu thuẫn của bản thân sự vật. Điều này đồng nghĩa với việc phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn hay nguyện vọng của con người. 3

Con người chỉ có thể tác động làm nhanh hay châm quá trình ấy dựa trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật. Vì vậy, phủ định biện chứng cũng chính là sự tự thân phủ định. Thứ hai, phủ định biện chứng là kết quả của việc tự giải quyết mâu thuẫn bên trong của bản thân sự vật và của quá trình tích lũy về lượng dẫn đến sự nhảy vọt về chất, cho nên cái mới ra đời không thể là sự phủ định sạch trơn cái cũ, mà là sự phủ định có kế thừa. Cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, cái mới không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt tích cực của cái cũ, tạo điều kiện và tiền đề cho sự phát triển tiếp theo. Với tính kế thừa ấy phủ định biện chứng đồng thời cũng là khằng định. Với đặc điểm như vậy, phủ định biện chứng không chỉ là nhân tố khắc phục cái cũ, mà còn gắn liền cái cũ với cái mới, cái khẳng định với cái phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng trở thành vòng khâu, khuynh hướng tất yếu của sự liên hệ và sự phát triển. 1.3. Quy luật phủ định của phủ định Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một quá trình vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới khác phủ định… Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định, từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường xoáy ốc. Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo của nó. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái lập cái ban đầu nhưng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bước tiến của sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó được gọi là sự phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới như là một sự tổng hợp và kế thừa những yếu tố tích cực của cái cũ, và những điểm tích cực ấy sẽ tiếp tục được duy trì và phát triển trong những lần phủ định tiếp theo. Do đó, cái mới với tư cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung toàn diện và 4

tiến bộ hơn so với cái khẳng định ban đầu và lần phủ định sau đó. Như vậy, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra xu hướng đi lên không ngừng – nhưng không theo đường thẳng mà theo đường xoáy ốc. Nhận xét về con đường này, V.I. Lênin viết : “Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (“phủ định của phủ định”); sự phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng...” Khái quát con đường phát triển bằng đường xoáy ốc thể hiện rõ nét tính chất biện chứng của sự phát triển bao gồm tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên và tính vô tận. Mỗi vòng xoáy ốc được lặp lại nhưng với trình độ cao hơn, bản chất tiên tiến hơn. Sự đi lên vô tận từ thấp đến cao được biểu hiện thông qua những vòng xoáy ốc tiếp nối không ngừng. Tóm lại, quy luật phủ định của phủ định nói lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái bị phủ định và cái phủ định trong quá trình phát triển của sự vật. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong sự vật cũ, phát huy nó trong sự vật mới và tạo nên tính chu kì của sự phát triển. 1.4. Ý nghĩa phương pháp luận của phép biện chứng về phủ định Phép biện chứng về phủ định, mà cụ thể ở đây là quy luật phủ định của phủ định là cơ sở để chúng ta nhận thức một cách đúng đắn nhất xu hướng vận động và phát triển của mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống. Thay vì đi theo những đường thẳng tắp, mọi sự vật phát triển theo những vòng xoáy ốc tiến lên không ngừng, đó là những quá trình quanh co, phức tạp, đặc biệt là lĩnh vực đời sống xã hội. Lenin viết: “Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn không va vấp, không nhảy lùi những bước rất lớn là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lí luận”. Song, sự phát triển là khuynh hướng chung, tất yếu của sự vận động của sự vật. cơ sở lí luận trên đây giúp ta có cái nhìn biện chứng về xu thế của thời đại mà ta đang sống. phép phủ định biện định biện chứng cũng giúp ta hiểu đầy đủ hơn về 5

cái mới. Cái mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. nó luôn luôn biểu hiện là giai đoạn cao về chất trong sự phát triển. Trong giới tự nhiên, cái mới xuất hiện được thực hiện một cách tự động. Trong đời sống xã hội, cái mới xuất hiện gắn liền với sự nhận thức và hoạt động của con người. Tuy cái mới là cái phù hợp với quy luật là cái tất thắng. Song, như Lenin nói: “Trong lúc cái mới vừa mới nảy sinh thì cái cũ trong một thời gian nào đó vẫn còn cứ mạnh hơn cái mới”. Vì vậy, một quan niệm chân chính về sự phát triển phải là một thái độ ủng hộ cái mới, đấu tranh cho cái mới, chống lại cái cũ, cái lỗi thời kìm hãm sự phát triển. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cần ủng hộ lối sống mới, đạo đức mới cũng như những lý thuyết khoa học mới. 2. VẬN DỤNG PHÉP BIỆN CHỨNG VỀ PHỦ ĐỊNH TRONG VIỆC KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CÁC GIÁ TRỊ TRUYỀN THỐNG TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA HIỆN NAY 2.1. Giá trị truyền thống 2.1.1. Khái niệm Nói đến truyền thống là nói đến phức hợp những tư tưởng, tình cảm, những tập quán, thói quen, những phong tục, lối sống, cách ứng xử, ý chí… của một cộng đồng người đã hình thành trong lịch sử, đã trở nên ổn đinh và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nói đến giá trị tức là muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp, là nói đến cái có khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới. Vì vậy, khi nói đến giá trị truyền thống thì hàm ý đã muốn nói tới những giá trị tương đối ổn định, tới những gì là tốt đẹp, là tích cực, là tiêu biểu cho bản sắc văn hoá dân tộc có khả năng truyền lại qua không gian, thời gian, những gì cần phải bảo vệ và phát triển. Bản thân truyền thống chính là một cơ chế vừa tích luỹ, vừa truyền đạt lại những gì đã được tích luỹ được đúc kết cho các thế hệ nối tiếp nhau của cộng đồng, 6

của dân tộc. Một giá trị khi trở thành giá trị truyền thống thì đã bao hàm trong nó ý nghĩa lâu dài, hoặc cũng có thể nói, một giá trị xét về mặt thời gian là bền vững thì tự thân nó đã mang ý nghĩa là giá trị truyền thống. Trên bình diện thời gian và phạm vi tác động cần thiết phải phân biệt các giá trị bền vững có ý nghĩa truyền thống này với những giá trị nhất thời, có phạm vi ảnh hưởng hạn hẹp, với các giá trị đang mờ nhạt dần hoặc thật sự đã lỗi thời, với các giá trị đang hình thành mà chưa đoán định được một cách chắc chắn ý nghĩa của chúng. Như vậy, nội dung truyền thống cũng như các giá trị truyền thống rất đa dạng và phong phú. Nhưng cần lưu ý rằng trong truyền thống không chỉ có toàn là những mặt tích cực mà còn có thể có không ít những nét tiêu cực nếu xét theo quan điểm lịch sử - cụ thể. Cho nên việc phân biệt các loại giá trị là rất quan trọng vì nó sẽ giúp cho chúng ta có được một cái nhìn khách quan, biện chứng, tránh được sự tuỳ tiện, chủ quan, cực đoan khi xem xét các giá trị, đề phòng cả hai khuynh hướng đã từng xảy ra, hoặc là phủ nhận sạch trơn mọi truyền thống và giá trị truyền thống, hoặc là lưu truyền thiếu phê phán, tán dương quá đáng những truyền thống ít giá trị hay không còn giá trị, thậm chí có hại hoặc cản trở sự phát triển. Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán, kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy theo hướng tiến bộ. 2.1.2. Các giá trị truyền thống của Việt Nam Việt Nam luôn tự hào là một đất nước với bề dày truyền thống lâu đời, với những giá trị văn hóa được hình thành trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc đã ăn sâu vào tiềm thức của người Việt và trở thành một bản sắc văn hóa đặc trưng, đáng quý. Có thể kể đến vô vàn những giá trị truyền thống cao đẹp và bền vững của dân tộc ta, đó là lòng yêu nước nồng nàn, yêu hòa bình, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể thương dân”, đoàn kết, cần cù, tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo, … Những giá trị văn hóa truyền thống này được lưu truyền từ thế hệ này 7

này sang thế hệ khác, tạo nên cốt cách con người Việt Nam và có giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước hiện đại, phát triển, con người văn minh, tiến bộ. Vì thế, việc gìn giữ, kế thừa và phát triển sáng tạo những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc được nhìn nhận như một thách thức tất yếu, mang tính khách quan và cũng là một nhiệm vụ cấp thiết của Đảng và của mỗi công dân đặc biệt trong thời kì hiện đại khi đất nước ta đang ngày một đổi mới, phát triển, hòa nhập với thế giới theo xu hướng toàn cầu hóa. 2.2. Vai trò của phép biện chứng của phủ định trong việc gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Kế thừa là quy luật phát triển tất yếu của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Kế thừa còn được xem là một trong những đặc trưng cơ bản, phổ biến của phủ định biện chứng, là sợi dây liên kết bền vững giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vật cũ và sự vật mới trên con đường phát triển. Thực chất đây là quá trình đấu tranh giữa cái cũ và cái mới, giữa sự vật cũ với sự vật mới nhằm phát huy những yếu tố, bộ phận tích cực, tiến bộ của cái cũ, sự vật cũ để xây dựng, tạo nên cái mới, sự vật mới. Quá trình đó vừa diễn ra sự lọc bỏ và giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, vừa bổ sung, phát triển và tạo ra các giá trị mới đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thế giới hiện thực. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, trong quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng ta luôn kế thừa, tiếp thu có chọn lọc những di sản quý báu của dân tộc và nhân loại. Trong đó, truyền thống văn hóa của dân tộc được Đảng ta kế thừa và phát huy triệt để, góp phần trực tiếp nâng truyền thống văn hóa của dân tộc và các giá trị của nó lên một tầm cao mới, với một chất lượng mới. Những thành tựu đạt được qua 25 năm đổi mới đã chứng minh sự đúng đắn trong quan điểm của Đảng ta nhằm khai thác, kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc vào xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Phát biểu khai mạc Hội nghị Trung ương năm khóa VIII, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu khẳng định: “Phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhân lên sức 8

mạnh của nhân dân ta để vượt qua khó khăn, thử thách, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo ra thế và lực mới cho đất nước ta bước vào thế kỷ 21”. Trước bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trong nước hiện nay, dưới sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã, đang và sẽ đặt ra cho chúng ta những khó khăn, thách thức lớn đối với việc kế thừa các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc. Vì vậy, nhiệm vụ giữ gìn và phát huy các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mới càng trở nên cấp thiết và nặng nề hơn bao giờ hết. 2.2.1. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ. Về mặt nhận thức, cần quán triệt quan điểm: Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là sự thống nhất của hai quá trình giữ lại và lọc bỏ. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay, về thực chất là một quá trình phủ định biện chứng các mặt, các yếu tố, thuộc tính và các bộ phận cấu thành của nó. Sự kế thừa đó không phải là loại bỏ hoàn toàn hay phủ định sạch trơn truyền thống văn hóa, cắt đứt sợi dây liên hệ giữa quá khứ, truyền thống với hiện tại và tương lai; nó cũng không phải là bê nguyên xi hoàn toàn truyền thống văn hóa mà là sự kế thừa có chọn lọc, kế thừa có điều kiện, tức là chỉ giữ lại những “hạt nhân hợp lý”, những yếu tố còn tích cực, tiến bộ, đồng thời loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu trong truyền thống văn hóa. Do điều kiện đặc thù của sự sinh tồn, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam từng bước được hình thành và phát triển. Truyền thống đó đã đồng hành và phát huy sức mạnh của nó trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Truyền thống ấy cũng thường xuyên được các thế hệ người Việt Nam kế tiếp tuyển chọn và sàng lọc, loại bỏ những yếu tố không còn phù hợp, giữ lại những nhân tố tích cực, tiến bộ, những “hạt nhân hợp lý”. Nhờ 9

đó, dân tộc Việt Nam luôn đứng vững trước muôn vàn thử thách, chiến thắng tất cả các thế lực ngoại xâm, bảo vệ vững chắc nền độc lập, chủ quyền của dân tộc, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, khi nhận thức và hành động, các chủ thể văn hóa cần có thái độ khách quan, khoa học trong giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc. Tích cực đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu, thông qua điều tra, khảo sát, đánh giá phân loại một cách có hệ thống, đồng bộ để lưu giữ những truyền thống văn hóa còn tiến bộ, còn phát huy tác dụng. Kiên quyết loại bỏ những gì của truyền thống văn hóa đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phát huy tác dụng. Xây dựng một thái độ đúng mực đối với những gì cần được bảo tồn, giữ gìn. Cái gì cần được bảo tồn, giữ gìn thì phải bảo tồn, giữ gìn ngay từ khi nó còn đang tồn tại. Hiện nay, trong hệ các giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc có rất nhiều giá trị độc đáo, đặc sắc cần phải được giữ gìn, kế thừa và phát huy. Đó là những giá trị tiêu biểu mang tính ổn định, lâu dài và là điểm tựa để Việt Nam phát triển đi lên. Những giá trị đó là “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống”. 2.2.2. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ta trong bối cảnh hiện nay chính là quá trình bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa. Kế thừa truyền thống văn hóa của dân tộc ở nước ta hiện nay là quá trình bổ sung, phát triển hơn nữa những “hạt nhân hợp lý” trong truyền thống văn hóa được giữ lại...


Similar Free PDFs