QLNE Liên hệ bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. PDF

Title QLNE Liên hệ bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Author Tún Tàii
Course Pháp luật đại cương
Institution Trường Đại Học Nội Vụ Hà Nội
Pages 15
File Size 474.9 KB
File Type PDF
Total Downloads 114
Total Views 617

Summary

Download QLNE Liên hệ bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. PDF


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA/TRUNG TÂM HÀNH CHÍNH CÔNG

TÊN ĐỀ TÀI

Phân tích bản chất nhà nước. Liên hệ bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: LÝ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT Mã phách:………………………………….(Để trống) Hà Nội – 2022

1

PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 3 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 3 4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 3 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài ............................................................. 3 NỘI DUNG .......................................................................................................... 4 Chương I BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC I. Bản chất của nhà nước 1. Tính giai cấp của nhà nước 2. Tính xã hội của nhà nước

4 4 7

Chương II NHÀ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

10

I. Bản chất của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN)

11

II.

11

Các đặc trưng của nhà nước CHXHCNVN

1. Tính giai cấp công nhân của nhà nước CHXHCNVN

11

2. Tính dân tộc của nhà nước CHXHCNVN

12

3. Tính thời đại của nhà nước CHXHCNVN

12

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 13 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................. 14

2

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài - Bản thân là sinh viên ngành Quản lí nhà nước – Khoa Hành chính công, cần phải nắm rõ được bản chất ngành cụ thể là bản chất của Nhà nước và liên quan cụ thể Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời cũng là nền tảng để sau này sinh viên bước trên đường Chính trị. Hiểu rõ bản chất của Nhà nước thì có thể góp phần kiến thiết và điều hành một cách tốt nhất. Thế nên tôi chọn đề tài “ Phân tích bản chất Nhà nước. Liên hệ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay”. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu: Đề tài sẽ làm rõ về bản chất của Nhà nước, phân tích những yếu tố bên ngoài lẫn bên trong để có thể hình thành nên bản chất của một Nhà nước từ đó liên hệ đến bản chất của Nhà nước ta cụ thể là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Nhiệm vụ nghiên cứu: + Nêu rõ và phân tích khái niệm bản chất Nhà nước + Liên hệ bản chất Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng nghiên cứu: Bản chất của Nhà nước và liên hệ bản chất Nhà nước Việt Nam - Phạm vi nghiên cứu: Từ khi bản chất Nhà nước hình thành. 4. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở nguồn gốc hình thành Nhà nước và bản chất của Nhà nước theo các học thuyết và Hiến pháp 1992, 2013 của Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài - Nắm vững kiến thức về bản chất của Nhà nước và bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để sau này vận dụng vào công việc thực tiễn cụ thể là góp phần xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

- Qua nghiên cứu đề tài, từ những nguồn gốc bản chất Nhà nước làm cơ sở cho việc xây dựng chính sách, kế hoạch kiến thiết và tạo lập sự phát triển bền vững cho Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

3

NỘI DUNG Chương I BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC I. Bản chất của Nhà nước Theo quan điểm của học thuyết Mác – Lênin, nhà nước mang bản chất giai cấp. Nhà nước chỉ ra đời từ khi xã hội phân chia giai cấp. Giai cấp nào thì nhà nước đó. Do trong xã hội nguyên thủy không có phân chia giai cấp, nên trong xã hội nguyên thủy không có Nhà nước. Cho đến nay, đã có 4 kiểu Nhà nước được hình thành: Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản, Nhà nước vô sản (Nhà nước xã hội chủ nghĩa). Nhà nước được giai cấp thống trị thành lập để duy trì sự thống trị của giai cấp mình, để làm người đại diện cho giai cấp mình, bảo vệ lợi ích của giai cấp mình. Bản chất nhà nước có hai thuộc tính: tính xã hội và tính giai cấp cùng tồn tại trong một thể thống nhất không thể tách rời và có quan hệ biện chứng với nhau. Tính giai cấp là thuộc tính cơ bản, vốn có của bất kỳ nhà nước nào. Nhà nước ra đời trước hết phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị; tính xã hội của nhà nước thể hiện ở chỗ nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, và ở mức độ này hay mức độ khác nhà nước thực hiện bảo vệ lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gia dân tộc và công dân mình. 1. Tính xã hội của nhà nước Ở phương diện xã hội, nhà nước là một tổ chức của xã hội, được sinh ra từ xã hội để duy trì, quản lí xã hội khi xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định. Xã hội muốn tồn tại ổn định, có trật tự và phát triển thì đòi hỏi phải có sự tổ chức và quản lí chặt chẽ, nếu không xã hội sẽ hỗn loạn. Bởi, xã hội nào cũng luôn có hàng loạt các vấn đề mang tính chất chung của toàn xã hội, mà không phải là của riêng một cá nhân hay lực lượng nào như sản xuất, thiên tai, địch họa, trật tự an toàn xã hội... Để giải quyết các vấn đề đó, xã hội cần phải có một tổ chức thay mặt xã hội, nhân danh xã hội để tổ chức, tập họp, quản lí toàn thể xã hội. Tổ chức đó phải thiết lập quyền lực chung (quyền lực công) của toàn xã hội. Những công việc này trước đây do tổ chức thị tộc, bộ lạc đảm nhiệm, khi nhà nước xuất hiện, nó phải thay mặt cho xã hội, đứng ra tổ chức dân cư giải quyết các vấn đề đó vì sự ổn định, sống còn của cả xã hội chứ không riêng của một giai cấp, cá nhân nào. Vì vậy, nhà nước là đại diện chính thức của toàn xã hội, nhà nước ở mức độ này hay mức độ khác phải có trách nhiệm xác lập, thực hiện và bảo vệ các lợi ích cơ bản, lâu dài của quốc gỉa, dân tộc và công dân của mình; phải tập họp và huy độrig mọi tầng lóp trong xã hội

4

vào việc thực hiện các nhiệm vụ chung để bảo vệ chủ quyền, phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội; duy trì trật tự xã hội và giải quyết những vấn đề phát sinh trong nước và quốc tế; tạo điều kiện cho các lĩnh vực hoạt động của xã hội được tiến hành bình thường, có hiệu quả, giúp xã hội phát triển vì lợi ích chung của cả cộng đồng, đưa lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mỗi thành viên và cả cộng đồng. Mặt khác, trong xã hội có giai cấp, các giai cấp dù là thống trị hay bị trị cũng đều là những bộ phận thống nhất tạo nên xã hội. Vì vậy, nhà nước vừa bảo vệ quyền lợi cho giai cấp thống trị, vừa phải bảo vệ lợi ích của các giai cấp, tầng lớp khác, tất nhiên chỉ trong giới hạn mà lợi ích của giai cấp thống trị cho phép. Theo Ăngghen, những hoạt động về mặt xã hội “là cơ sở của sự thống trị chinh trị và sự thống trị chỉnh trị củng chỉ kéo dài chừng nào mà nó còn thực hiện những hoạt động về mặt xã hội của nó”. Như vậy, những hoạt động về mặt xã hội của nhà nước không mang tính chất thuần tuý xã hội như của tổ chức thị tộc, bộ lạc, mà nó vẫn biểu hiện ở mức độ này hay mức độ khác lợi ích của giai cấp thống trị, bởi suy cho cùng nố cũng bị chi phối bởi ý chí của giai cấp thống trị. Như vậy, nhà nước là tổ chức quyền lực công, tổ chức nhân danh xã hội thực hiện việc quản lí xã hội, nhà nước không thể tồn tại nếu chỉ phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị mà không tính đến lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp, các lực lượng khác trong xã hội. Mặc dù được sinh ra, tồn tại trong lòng xã hội nhưng nhà nước có vị trí đặc biệt trong xã hội, nó tựa hồ như đứng trên xã hội, đại diện cho cả xã hội để giải quyết những công việc mang tính xã hội. Do vậy, tính xã hội của nhà nước là một thuộc tính mang tính khách quan. Tuy nhiên, mức độ và phạm vi tính xã hội của nhà nước được biểu hiện trong mỗi kiểu nhà nước, trong mỗi nhà nước không hoàn toàn giống nhau. Điều này tùy thuộc vào nhiều yếu tố, điều kiện và hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nhà nước chủ nô, nhất là các nhà nước chủ nô phương Đông, do điều kiện kinh tế xã hội khá khắc nghiệt nên đã phải thực hiện khá nhiều các hoạt động kinh tế - xã hội để duy trì tồn tại phát triển của xã hội. Sự tham gia của các nhà nước phong kiến trong việc giải quyết những cồng việc của xã hội vừa xuất phát từ nhu cầu đòi hỏi của xã hội phong kiến, vừa phụ thuộc mong muôn và nguyện vọng của cư dân và cả từ ý chí chủ quan, lòng tốt của những người cầm quyền. Trong xã hội phong kiến, khi mà mọi quyền lực đều thuộc về các vua chúa phong kiến thì nền chính trị tốt hay xấu trong nhiều trường hợp phụ thuộc vào nhân cách, phẩm hạnh của vua, chúa và tầng lớp quan lại trong nước. Việc đưa đất nước đến thịnh vượng hay suy vong, nhân dân ấm no hay đói khổ lầm than trong nhiều trường hợp phụ thuộc rất nhiều vào vai trò, sự sáng suốt, nhân từ hay ngu muội, bạo ngược của vua chúa trong đất nước. Các nhà nước phong kiến tùy

5

thuộc điều kiện cụ thể của đất nước ở những chừng mực nhất định tham gia tiến hành các hoạt động kinh tế - xã hội vì sự phát triển đất nước, vì lợi ích của dân cư, vì sự phồn thịnh của quốc gia. Tuy nhiên, sự quan tâm tới các hoạt động xã hội của nhà nước phong kiến chưa nhiều, chưa đúng với vị trí vai trò của nó trong xã hội. Với sự phát triển của xã hội, sự ra đời của nhà nước tư sản đã bắt đầu một sự biến đổi lớn trong bản chất nhà nước: tính xã hội của nhà nước dần nổi trội hơn, tính giai cấp của nhà nước được che giấu kín đáo hơn. Nhà nước tư sản tiến bộ hơn rất nhiều so với nhà nước chủ nô và phong kiến. Với những thể chế và thiết chế dân chủ tư sản được xác lập đã làm cho nhà nước tư sản có vai trò xã hội ngày càng quan trọng hơn, thúc đẩy sự phát triển của xã hội tư sản nói riêng và của nền văn minh nhân loại nói chung. Giai đoạn gần đây nhà nước tư sản can thiệp sâu hơn, nhiều hơn vào các hoạt động kinh tế - xã hội, tạo ra những điều kiện để xã hội phát triển tốt hơn, văn minh hơn. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, các giai cấp bóc lột bị xóa bỏ, chỉ còn lại công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động khác có lợi ích và địa vị xã hội tương đối thống nhất nên các quan hệ sản xuất mới được thiết lập và củng cố dựa trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất - đó là kiểu quan hệ sản xuất thể hiện sự hợp tầc, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao động. Cơ sở kinh tế - xã hội đó đã làm cho mục đích ra đời, tồn tại và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa khác hẳn so với các nhà nước trước đây. Nếu các nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản đều ra đời, tồn tại nhằm bảo vệ quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, từ đó duy trì bảo vệ sự thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp bóc lột là một thiểu số dân cư đối với người lao động là số đông trong xã hội, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa tìm cách xoá bỏ dần chế độ tư hữu, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất để tiến tới xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột trong xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của nhân dân, nó tồn tại và hoạt động được sự ủng hộ, giúp đỡ của cả xã hội. Mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới tốt đẹp hơn về mọi mặt. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức trực tiếp tổ chức và quản lí hầu hết các mặt quan trọng của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội, trong đó quan trọng nhất là tổ chức và quản lí kinh tế. Đó là một sự nghiệp vĩ đại nhưng đồng thời cũng là công việc cực kì khó khăn và phức tạp, đòi hỏi nhà nước phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước phải là một tổ chức có đủ năng lực để quản lí và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Cùng với sự phát triển của khoa học, kĩ thuật, của dân chủ và văn minh thì tính xã hội của nhà nước ngày càng mở rộng; sự giới hạn quyền lực nhà nước ngày càng

6

được xác định rõ ràng hơn; tính minh bạch, công khai và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ngày càng được thực hiện có hiệu quả hơn và các quá trình xã hội hoá một số hoạt động nhà nước sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn. Ngày nay trong xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập và phát triển, trách nhiệm của nhà nước ngày càng nặng nề hơn, nhiêu vấn đề như lao động, việc làm, phòng chống tội phạm và bảo vệ môi trường... không chỉ là vấn đề mang tính quốc gia mà còn có tính quốc tế và luôn đòi hỏi nhà nước phải có trách nhiệm giải quyết. Điều này dẫn đến tính xã hội của nhà nước không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà nó được mở rộng ra đối với toàn nhân loại, các nhà nước phải tuỳ thuộc vào nhau, liên kết với nhau nhiều hơn trong việc giải quyết các vấn đề của mỗi nước và của toàn nhân loại. 2. Tính giai cấp của nhà nước Ở phương diện này nhà nước là công cụ bảo vệ lợi ích cho các giai tầng trong xã hội, mà chủ yếu là của giai cấp thống trị, thực hiện các mục đích mà giai cấp thống trị đề ra. Nhà nước bị giai cấp chiếm địa vị chủ yếu trong hệ thống sản xuất xã hội nắm giữ và lợi dụng. Theo các nhà kinh điển thì, nhà nước theo nghĩa chung nhất chỉ là sự thể hiện (dưới hình thức tập trung nhất) những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống trị trong sản xuất. Những điều kiện kinh tế bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của xã hội có giai cấp và những mâu thuẫn không thể điều hoà được do chúng tạo ra giữa các giai cấp đối kháng đã sinh ra sự cần thiết khách quan buộc giai cấp thống trị trong những quan hệ kinh tế đó phải tập trung sức mạnh của mình vào nhà nước. Nói cách khác, giai cấp thống trị về kinh tế của xã hội trong điều kiện tồn tại mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp đòi hỏi phải trở thành giai cấp thống trị về chính trị và thực hiện sự thống trị về chính trị thông qua nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội khác. Sự thống trị về chính trị của giai cấp còn gọi là chuyên chính giai cấp. Giai cấp có kinh tế sử dụng nhà nước để chống lại các giai cấp khác, bảo vệ lợi ích cho giai cấp mình. Tuy nhiên, để thực hiện quyền lực chính trị của mình, trong những điều kiện nhất định, bên cạnh nhà nước, giai cấp thống trị còn sử dụng các tổ chức chính trị - xã hội khác, song nhà nước là công cụ quan trọng nhất, cần lưu ý là, để thực hiện sự thống trị giai cấp một cách có hiệu quả, giai cấp thống trị còn thực hiện sự tác động về tư tưởng đối với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội. Thông qua nhà nước, giai cấp thống trị xây dựng hệ tư tưởng của mình thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội, bắt các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội phải nghe theo, phải làm theo điều mà giai cấp thống trị mong muốn.

7

Có thể nói tính giai cấp là thuộc tính bản chất của bất kì một nhà nước nào, song mức độ thể hiện của nó trong mỗi kiểu nhà nước và trong mỗi nhà nước cụ thể lại rất khác nhau, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và tương quan lực lượng của các giai tầng trong xã hội. Khi một giai cấp có đủ điều kiện và sức mạnh để trở thành giai cấp thống trị thì tự nó sẽ nắm lấy quyền lực nhà nước, còn nếu không thể tự mình cầm quyền thì các giai cấp sẽ thoả hiệp, chia sẻ quyền lực nhà nước với các giai cấp và lực lượng khác trong xã hội để bảo vệ vị thế và lợi ích của giai cấp và của xã hội. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, chủ nô chỉ là một thiểu số dân cư trong xã hội nhưng có tất cả (đất đai, tư liệu sản xuất, nô lệ, tự do cá nhân và toàn quyền thống trị đối với nô lệ), còn nô lệ chiếm số đông trong xã hội nhưng hầu như không có gì đáng kể (tính mạng, số phận cũng như các hoạt động xã hội của họ đều do chủ nô quyết định). Với cơ sở kinh tế - xã hội như trên cho thấy tính xã hội của nhà nước chủ nô chưa thể hiện được nhiều, nhưng tính giai cấp của nhà nước chủ nô thể hiện rất rõ nét. Mặc dù chế độ nô lệ ở các nước khác nhau có những khác biệt nhất định nhưng quyền lực chính trị trong xã hội luôn thuộc về giai cấp chủ nô. Quyền lực đó thể hiện tính quân phiệt tàn bạo của chủ nô đối với nô lệ. Nhà nước chủ nô - tổ chức quyền lực chính trị của giai cấp chủ nô là công cụ chuyên chính chủ yếu của chủ nô để cưỡng bức, đầy đọa, đàn áp một cách có tổ chức, công khai đối với nô lệ, bảo vệ sự thống trị về kinh tế, chính trị và tinh thần của chủ nô đối với nô lệ, duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ. Vì vậy, V. I. Lênin đã nhấn mạnh: “Nhà nước chiếm hữu nô lệ bao giờ cũng là một bộ máy đem lại cho chủ nô quyền lực và khả năng cai trị tất cả những người nô lệ... là một bộ máy để duy trì những người nô lệ trong địa vị phụ thuộc và cho phép một bộ phận này của xã hội (giai cấp chủ nô) cưỡng bức và đàn áp bộ phận kia (giai cấp nô lệ)”. Trong chế độ phong kiến, địa chủ phong kiến chiếm hữu đối với hầu hết đất đai, các tư liệu sản xuất khác và chiếm đoạt một phần sức lao động của nông dân, còn nông dân không có đất, không có tư liệu sản xuất nên bị lệ thuộc vào địa chủ phong kiến về mặt kinh tế, họ buộc phải làm thuê cho địa chủ phong kiến và phải làm nhiều nghĩa vụ nặng nề đối với địa chủ phong kiến. Nhà nước phong kiến là công cụ chủ yếu của địa chủ phong kiến để chống lại nông dân và những người lao động khác nhằm củng cố, bảo vệ sự thống trị về mọi mặt của địa chủ phong kiến. Các nhà nước phong kiến thường công khai thể hiện tính giai cấp thông qua các thể chế và quá trình tổ chức, hoạt động của nhà nước. Nhiều nhà nước phong kiến còn liên kết chặt chẽ với các tổ chức tôn giáo thành một chế độ cai trị cực kì chuyên chế để đàn áp, áp bức, bóc lột nông dân về thể xác cũng như về tinh thần. Do vậy, “... trên thực

8

tế địa vị của nông dân chỉ khác rất ít địa vị của nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ”. So với các nhà nước của các thời đại trước, nhà nước tư sản có rất nhiều tiến bộ, tuy nhiên, do tồn tại trên cơ sở của chế độ tư hữu và phục vụ cho chế độ đó, nhà nước tư sản vẫn không thể thoát khỏi những hạn chế lịch sử của nó là duy trì, bảo vệ sự áp bức, bóc lột của thiểu số dân cư thống trị đối với đa số quần chúng nhân dân trong xã hội. Điều đó sẽ kìm hãm sự phát triển của xã hội loài người trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, quyền lực chính trị mặc dù được tuyên bố thuộc về nhân dân, song vì quyền lực kinh tế nằm trong tay giai cấp tư sản nên quyền lực nhà nước tư sản thực chất thuộc về giai cấp tư sản là chủ yếu. V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Những hình thức của nhà nước tư sản thì hết sức khác nhau nhưng thực chất chỉ là một. Chung quy lại thì tất cả những nhà nước ấy, vô luận thể nào cũng tất nhiên phải là nền chuyên chính tư sản”.1 Do vậy, nhà nước tư sản trên thực tế chủ yếu mang lại lợi ích, bảo vệ và thực hiện các mục đích mà giai cấp tư sản đề ra. Nhà nước tư sản đã cố gắng thích nghi với những điều kiện mới và đã đạt được những thành công nhất định trên nhiều mặt khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội không thể phủ nhận. Tuy nhiên, dù phát triển đến giai đoạn nào, dù cố gắng cải biến đến đâu để thích nghi với điều kiện mới, nhà nước tư sản cũng không thể thay đổi tính giai cấp của mình, nó vẫn là công cụ mà giai cấp tư sản dùng để duy trì, bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư sản. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa đánh dấu bước phát triển mới trong bản chất của nhà nước, nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn là nhà nước theo đúng nghĩa nữa, mà nó trở thành “nửa nhà nước”. Bởi vì theo V. I. Lênin "chuyên chỉnh vỏ sản không phải chỉ là bạo lực đoi với bọn bóc lột và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó là giai cấp vô sản đưa ra và thực hiện được kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản; đẩy là thực chất của vẩn đề. Đấy là nguồn sức mạnh, là điêu bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tẩt nhiên của chủ nghĩa cộng sản"} Khác với các giai cấp trước kia, giai cấp vô sản sau khi trở thành giai cấp thống trị, nắm trong tay quyền lực nhà nước, không có mục đích dùng nhà nước để duy trì mãi địa vị thống trị của mình, mà là để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, xoá bỏ mọi sự áp bức bóc lột và mọi sự thống trị giai cấp. Vì vậy, trong quá trình tổ chức và thực thi quyền lực, giai cấp vô sản thực hiện sự liên minh với mọi lực lượng lao động của xã hội để thiết lập những nguyên tắc và cơ chế vận hành quyền lực nhà nước dựa trên cơ sở quyền lực nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.

9

Như vậy, nhà nước xét dưới giác độ giai cấp thể hiện ở chỗ nó nằm trong...


Similar Free PDFs