Tiểu luận Triết học Mác Lênin 2020/2021 PDF

Title Tiểu luận Triết học Mác Lênin 2020/2021
Author Chi Lê
Course Phylosophy
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 15
File Size 210.8 KB
File Type PDF
Total Downloads 71
Total Views 619

Summary

Download Tiểu luận Triết học Mác Lênin 2020/2021 PDF


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ QUẢNG NINH KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN

Đề tài: Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật trong hoạt động Kinh tế Đối ngoại ở Việt Nam Giảng viên hướng dẫn: ThS Nguyễn Tùng Lâm Sinh viên thực hiện: Hà Ngọc Minh Đức Ngành: Kinh Doanh Quốc Tế Mã sinh viên: 2014515018

Quảng Ninh, tháng 6 năm 2021

MỤC LỤC I.

Lời mở đầu

II.

Chương I: Cơ sở lý luận - Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật - Khái niệm kinh tế đối ngoại và tính tất yếu của việc mở rộng KTĐN

III. Chương II: Cơ sở thực tiễn - Hiện trạng hoạt động KTĐN của nước ta hiện nay - Một số giải pháp

III. Chương III: Một số giải pháp

IV. Kết luận

V. Tài liệu tham khảo

Lời mở đầu 15 năm gia nhập WTO là một chặng đường đủ dài để chúng ta nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình hội nhập kinh tế. Sự phát triển kinh tế đối ngoại (KTĐN) trong thời gian vừa qua đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, thậm chí là quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của nước ta. Lợi ích kinh tế xã hội mà KTĐN mang lại cho nền kinh tế quốc dân và đời sống xã hội được thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội như phát triển sản xuất, đổi mới cơ cấu kinh tế, tăng năng suất lao động, tích lũy ngoại tệ, tăng nguồn thu Ngân sách Nhà nước, giải quyết việc làm cải thiện đời sống nhân dân,... Tuy nhiên, hoạt động KTĐN vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế. Vì vậy việc mở rộng và nâng cao hiệu quả KTĐN là vấn đề cấp bách và cần thiết đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) của Đảng đã ghi: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho hành động của mình. Xuất phát từ nhận thức, những kiến thức được học nên em lựa chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc toàn diện của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại”. Bằng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lí luận và thực tiễn, phân tích tổng hợp, hy vọng bài luận này sẽ giúp bạn đọc hiểu thêm về thành tựu cũng như hạn chế, nguyên nhân cũng như giải pháp cho hoạt động kinh tế đối ngoại nước ta hiện nay.

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN I.

Quan điểm toàn diện của phép biện chứng duy vật:

Trong nhận thức và thực tiễn cần quán triệt quan điểm toàn diện. Với tư cách là một nguyên tắc phương pháp luận trong nhận thức các sự vật, hiện tượng, quan điểm toàn diện đòi hỏi phải xem xét sự vật như một chính thể của tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính, cùng các mối liên hệ của chúng trong bản thân sự vật; mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác và với môi trường xung quanh, kể cả các mặt các mối liên hệ trung gian, gián tiếp. Trong nhận thức, tính toàn diện là yêu cầu tất yếu của cách tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động có thể có của đối tượng nghiên cứu trong tính toàn vẹn của nó. V.I.Lenin viết: “Muốn thực sự hiểu được sự vật cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và “quan hệ gián tiếp” của sự vật đó”; phải tính đến “tổng hòa những quan hệ muôn vẻ của sự vật ấy với những sự vật khác”. Nghĩa là phải xem xét khách thể trong tất cả những mối liên hệ và quan hệ của nó với khách thể khác. Tuy nhiên, theo V.I.Lenin: “Chúng ta không thể làm được điều đó một cách hoàn toàn đầy đủ, nhưng sự cần thiết phải xem xét tất cả mọi vật sẽ đề phòng cho chúng ta không phạm sai lầm và sự cứng nhắc.” Sở dĩ chúng ta không làm được điều đó một cách đầy đủ là với hai lý do: Một là, sự vật trong quá trình tồn tại phải trải qua rất nhiều giai đoạn khác nhau, trong mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển không phải bao giờ sự vật cũng bộc lộ tất cả các mối quan hệ và liên hệ của nó cũng như các quan hệ của sự vật với các sự vật khác, hơn nữa tất cả những mối quan hệ và liên hệ ấy chỉ được biểu hiện ra trong những điều kiện nhất định. Hai là, bản thân chúng ta - những chủ thể nhận thức - những phẩm chất và năng lực của chúng ta luôn bị chế ước bởi những điều kiện xã hội lịch sử, do đó không bao giờ có thể bao quát được hết những mối liên hệ và quan hệ của sự vật với các sự vật khác. Ví dụ, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang thực hiện còn sơ khai, các yếu tố của thị trường mới được tạo lập chưa đồng bộ, các quan hệ thị trường đang trong giai đoạn hình thành và phát triển, còn đang

biến động, do đó, nhận thức về kinh tế thị trường của chúng ta còn chưa đầy đủ. Do đó quan điểm toàn diện gắn chặt với quan điểm lịch sử cụ thể. Tuy nhiên về mặt nguyên tắc, trong những điều kiện cho phép, cần phải nắm được thông tin đầy đủ nhất về sự vật để có nhận thức toàn diện nhất và đúng đắn nhất về sự vật. Quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Cùng một sự vật, xuất phát từ nhu cầu khác nhau chủ thể sẽ phản ánh những mặt khác nhau của sự vật và do vậy, nó biểu hiện ra là những cái khác nhau. Mối liên hệ giữa sự vật với nhu cầu của chủ thể rất đa dạng, trong một hoàn cảnh nhất định, con người chỉ phản ánh một số mối liên hệ xác định của sự vật với nhu cầu nhất định của mình, nên nhận thức về sự vật cũng mang tính tương đối, không đầy đủ, không trọn vẹn. Nắm được điều đó chúng ta sẽ tránh được việc tuyệt đối hoá những tri thức đã có về sự vật và tránh xem đó là những chân lý bất biến, tuyệt đối cuối cùng về sự vật, không thể bổ sung, không thể phát triển. Xem xét toàn diện tất cả các mặt của những mối quan hệ của sự vật đòi hỏi phải chú ý đến sự phát triển cụ thể của các quan hệ đó. Chỉ có như vậy chúng ta mới thấy được vai trò của các mặt trong từng giai đoạn cũng như của toàn bộ quá trình vận động, phát triển của từng mối quan hệ cụ thể của sự vật. V.I.Lênin viết: “Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ này, một mẩu ở chỗ kia”. Như vậy xem xét toàn diện nhưng không bình quân dàn đều mà có trọng tâm, trọng điểm; phải tìm ra vị trí từng mặt, từng yếu tố, từng mối liên hệ ấy trong tổng thể của chúng; phải từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ khái quát để rút ra cái chủ yếu nhất, bản chất nhất, quan trọng nhất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện. Quan điểm phiến diện chỉ thấy một mặt mà không thấy mặt khác, hoặc giả chú ý đến nhiều mặt nhưng lại xem xét tràn lan, dàn đều, không thấy được bản chất của sự vật. Quan điểm này cuối cùng rơi vào thuật nguỵ biện và chủ nghĩa chiết trung. Chủ nghĩa chiết trung cũng tỏ ra chú đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật nhưng lại không biết cách rút ra mặt bản chất, mối liên hệ căn bản của sự vật, xem xét mộtcách bình quân, kết hợp một cách vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau, tạo thành

một mớ hỗn tạp các sự kiện, cuối cùng sẽ lúng túng, mất phương hướng và bất lực trước chúng. Trong tác phẩm “Lại bàn về công đoàn...”, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Sai lầm của Bukharin về mặt lý luận- trong trường hợp này về mặt nhận thức luận- là đã thay thế phép biện chứng bằng chủ nghĩa chiết trung”. Điều đó làm cho Bukharin lung túng mất phương hướng và rơi vào chủ nghĩa công đoàn. Còn “Sai lầm của Trốtxki là tính phiến diện, sự thiên lệch, thổi phồng, ngoan cố”. V.I.Lênin cho rằng: “Nếu cứ giữ mãi sai lầm đó, thì kết quả không phải là cái gì khác hơn là một thiên hướng công đoàn chủ nghĩa chống lại chủ nghĩa cộng sản”. Thuật nguỵ biện cũng để ý đến nhiều mặt nhiều mối liên hệ khác nhau củasự vật nhưng lại đưa cái không cơ bản thành cái cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả chủ nghĩa chiết trung lẫn thuật nguỵ biện đều là những biểu hiện của phương pháp luận sai lầm trong xem xét các sự vật, hiện tượng. Vạch rõ đặc điểm của chủ nghĩa chiết trung và phép nguỵ biện khác với phép biện chứng, V.I.Lênin viết: “Tính linh hoạt toàn diện, phổ biến của các khái niệm, áp dụng một cách chủ quan bằng chủ nghĩa chiết trung và nguỵ biện. Tính linh hoạt áp dụng một cách khách quan nghĩa là phản ánh tính toàn diện của quá trình vật chất và sự thống nhất của quá trình đó, thì đó là phép biện chứng, là sự phản ánh chính xác sự phát triển vĩnh viễn của thế giới ”. Trong bối cảnh quốc tế cuối những năm 1980 đầu những năm 1990 của thế kỉ XX, khi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ và tan vỡ, chủ nghĩa xã hội thế giới lâm vào khủng hoảng và thoái trào, một số nước tư bản lại có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh đó, lối xemxét phiến diện, một chiều sẽ làm người ta dễ hoang mang dao động, phủ nhận tính tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản, phủ nhận nội dung và tính chất của thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Rõ ràng nguyên tắc toàn diện không đồng nhất với cách xem xét dàn đều, liệt kê những tính quy định khác nhau của sự vật hay hiện tượng đó; nó đòi hỏi phải làm nổi bật cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay hiện tượng đó. Từ những phân tích trên cho thấy, lôgíc của quá trình hình thành quan điểm toàn diện trong nhận thức, xem xét sự vật sẽ phải trải qua nhiều giai đoạn cơ bản là đi từ ý niệm ban đầu về cái toàn thể đến nhận thức một mặt, một mối liên hệ cụ thể của sự vật rồi đến nhận thức nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đó,

và cuối cùng đi tới khái quát những tri thức phong phú đó để rút ra tri thức về bản chất của sự vật. Từ nguyên tắc toàn diện trong nhận thức, chúng ta đi đến nguyên tắc đồng bộ trong hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc này đòi hỏi muốn cải tạo sự vật, hiện tượng phải áp dụng đồng bộ một hệ thống các biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động làm thay đổi các mặt, các mối liên hệ tương ứng của sự vật. Song trong từng bước, từng giai đoạn phải nắm đúng khâu trọng tâm, then chốt. Nghĩa là phải kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” trong cải tạo sự vật.

II.

Khái niệm kinh tế đối ngoại và tính tất yếu khách quan của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại:

1. Khái niệm Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với quốc gia khác còn lại hoặc với tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. 2. Tính tất yếu của việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại Mở rộng mối quan hệ kinh tế đối ngoại đã và đang là xu hướng tất yếu đối với hầu hết các nước. Tính khách quan và phổ biến của nó bắt đầu từ yêu cầu của quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố tàinguyên thiên nhiên và sự phát triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật giữa nước này với nước khác, dẫn đến nhu cầu sử dụng sao cho có hiệu quả nguồn lực mỗi quốc gia. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, dưới sự tác động của cuộc cách mạng khoa học hiện đại, xu hướng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ngày càng trở nên sôi động.

CHƯƠNG II: CƠ SỞ THỰC TIỄN I.

Hiện trạng hoạt động kinh tế đối ngoại của nước ta hiện nay:

1. Những thành tựu đã đạt được Sau chặng đường 15 năm gia nhập WTO, kết quả đáng ghi nhận là kinh tếnước ta đã phát triển mạnh mẽ trên mọi lĩnh vực, đặc biệt trong thương mại, dịch vụ, thu hút đầu tư nước ngoài (FDI). Trong 5 năm 2006-2010, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thực hiện 45 tỉ USD, vượt 77,8% so với kế hoạch. Tổng số vốn FDI đăng ký mới và bổ sung đạt 146 tỉ USD, gấp 7 lần so với giai đoạn 2001-2005. Hội nhập, đã phá được thế bao vây cấm vận, tạo được sự bình đẳng trong thương mại quốc tế. Hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó nòng cốt là ngoại thương tiến bộ rõ rệt. Thị trường được rộng mở tới 149 nền kinh tế thành viên. Kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng trưởng. Kim ngạch xuất khẩu bình quân theo đầu người năm 2010 đạt 914,4 USD/người trong khi năm 2006 là 559,2 USD/người. Theo đà diễn biến các tháng gần đây, đến thời điểm này đã khẳng định năm 2011 xuất khẩu sẽ vượt năm 2010 rất ngoạn mục. Đến năm 2010 đã có 19 thị trường Việt Nam xuất khẩu đạt từ 1 tỉ USD trở lên, trong đó đầu bảng là Hoa Kỳ, đạt 14,2 tỉ USD, tiếp đến là Nhật Bản và Trung Quốc.... Cũng trong số 19 thị trường nói trên có 6 tên tuổi thuộc khu vực ASEAN, lần lượt theo trị số kim ngạch từ lớn đến nhỏ là Singapore, Malaysia, Philippines, Campuchia, Indonesia, Thái Lan. Trên tổng thể cán cân thương mại của Việt Nam là nhập siêu, nhưng hiện có 6 thị trường ta xuất siêu là Hoa Kỳ, Thuỵ Sỹ, Campuchia, Anh, Hà Lan, Philippines, như một tin báo tiệp rằng sẽ cân bằng xuất - nhập. Ngành du lịch Việt Nam đã có bước phát triển đáng kể. Số khách du lịch quốc tế vào Việt Nam năm 2011 đã đạt mốc 6 triệu vào ngày 26/12 và hiện có hàng trăm ngàn lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài, đem lại nguồn thu nhập hàng tỷ USD hàng nam cho đất nước. Các doanh nghiệp trong nước đã được quyền bình đẳng với doanh nghiệp nước ngoài trong xuất khẩu, giảm thiểu sự phân biệt hoặc rào cản thương mại bất hợp lý. Điều đó thể hiện rõ đối với doanh nghiệp dệt may khi đón nhận cơ hội chuyển dịch sản xuất từ các nước phát triển sang những nước đang phát triểnthông qua làn song chuyển giao công nghệ, mẫu mã. Đặc biệt, vấn đề hạn ngạch – vốn là rào cản, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong nhiều năm, được dỡ bỏ bên cạnh việc doanh nghiệp được bình đẳng về thuế quan với doanh nghiệp các nước. Một sân chơi mới, rộng lớn và song phẳng đã mở ra, tạo điều

kiện cho cộng đồng doanh nghiệp huy động, sử dụng các nguồn lực một cách chủ động để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Quá trình hiện đại hóa trang bị, dây chuyền sản xuất đã diễn ra với tốc độ cao ở hầu hết doanh nghiệp. Doanh nghiệp đang kết hợp cả hoạt động gia công với việc tự sáng tạo mẫu mà, tự tìm thị trường xuất khẩu và cạnh tranh có hiệu quả. Tác dụng to lớn về mặt xã hội từ xuất khẩu hàng dệt may được xác nhận vì cứ một tỷ USD xuất khẩu bảo đảm cho 150 ngàn người có việc làm ổn định. Việt Nam đang đứng trong số 10 nước dẫn đầu về xuất khẩu dệt may, với tốc độ tăng trưởng bình quân 25%/ năm. 2. Những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân Thứ nhất, năng lực cạnh tranh của hàng hóa nước ta ở cả 3 cấp quốc gia, ngành hàng, doanh nghiệp còn kém, thể hiện là giá thành còn cao, phẩm cấpthấp so với chuẩn quốc tế, chất lượng phục vụ thiếu chuyên nghiệp. Nguyên nhân của vấn đề này do chi phí sản xuất của ta nói chung còn cao so với các quốc gia trong khu vực: tuy chí phí lao động thấp nhưng giá các dịch vụ như liên lạc, viễn thông, hàng không, điện nước… đều cao, công nghệ được sử dụng trong các doanh nghiệp Việt Nam thì chưa được gọi là tiên tiến Thứ hai, đồng tiền Việt Nam cho đến nay, chưa có thể chuyển đổi tự do. Buôn bán quốc tế lớn đến thế, mà đồng tiền không chuyển đổi tự do được, có nghĩa là các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu của ta phải chịu các chi phí chuyển đổi tiền với thủ tục phiền hà và tốn kém thời gian. Đã thế họ còn phải chịu thiệt do quy định về kết hối ngoại tệ, tiền của họ thu được do xuất khẩu, khi nhập khẩu cần ngoại tệ lại phải xin phép ngân hàng cấp. Cung cấp tín dụng cho xuất khẩu là một trong các yếu tố quyết định sự thành công của xuất khẩu, thế nhưng ở nước ta việc cung cấp các tín dụng này, đặc biệt là cung cấp vốn lưu động cho các nhà xuất khẩu gặp nhiều trở ngại. Những trở ngại này liên quan tới những thủ tục vay vốn phiền hà, những quy chế phức tạp về thế chấp, nhất là trong điều kiện thị trường bất động sản hoạt động rất kém, sự phân biệt đối xử đối với các loại hình doanh nghiệp, và chưa có cơ chế tái chiết khấu các thương phiếu...Việc cung cấp tín dụng yếu kém đã tác động xấu cả tới việc thu hút vốn FDI và du lịch, vì các nhà đầu tư ít có cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn trong nước để phát triển kinh doanh Thứ ba, đội ngũ các doanh nghiệp hoạt động kinh tế đối ngoại đã tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Thứ tư, chưa nhận thức thật đầy đủ và thống nhất về hội nhập, chưa coi đây là yêu cầu tất yêu trong xu thế toàn cầu hóa, nước ta không thể đứng ngoài. Cũng

có biểu hiện nóng vội có ngay sự trợ giúp của cộng đồng quốc tế về vốn và kĩ thuật công nghệ, quản lí tiên tiến để phát triển. Nhưng cũng có thiên hướng chỉ lo lắng về thách thức, hoang mang khi thị trường quốc tế rung động, lập tức Việt Nam gặp khó khăn, khác xa với thời nằm im trong vỏ bọc bao cấp quốc tế. Thứ năm, các doanh nghiệp thường ít khi phân tích, nghiên cứu dung lượng của thị trường, các giới hạn của thị trường và khả năng thâm nhập tối đa của hàng Việt Nam vào các thị trường đó. Điều này dẫn đến việc gia tăng quá mức một mặt hàng nào đó, hay không ứng phó kịp với sự biến động của thế giới. Thứ sáu, các vấn đề về tỷ giá, thuế quan, hải quan, những quy chế về đầu tư nước ngoài, chính sách xuất nhập cảnh... còn nhiều phức tạp, nhiều thủ tục. Kinh tế đối ngoại và đối nội thực chất chỉ là hai mặt của một nền kinh tế, vì vậy những thay đổi về kinh tế đối ngoại đòi hỏi kinh tế đối nội phải thay đổi theo. Chính sự tiến triển không kịp của kinh tế đối nội sẽ cản trở kinh tế đối ngoại phát triển và ngược lại. Nước ta đang ở thời điểm kinh tế đối nội không phát triển kịp, cản trở kinh tế đối ngoại - luật pháp thay đổi chậm, các công ty chậm đổi mới và yếu kém, điều hành của bộ máy quản lý kém hiệu lực... Nguyên nhân sâu xa của những vấn đề còn tồn tại nêu trên là do kinh tế nước ta còn yếu kém, chưa thể hấp thụ, chưa thể chuyển hóa cơ hội thành hiện thực, bộ máy quản lí còn yêu kém, lao động Việt Nam tay nghề không cao, thể chế hành chính luật pháp không minh bạch.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP Thứ nhất, xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng là một tiền đề để mở rộng kinh tế đối ngoại. Các cơ sở hạ tầng cần cho hoạt động kinh tế đối ngoại là các cảng biển, đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế, sân bay quốc tế, các đường cao tốc nối từ các trung tâm kinh tế đến sân bay và cảng biển, hệ thống liên lạc, viễn thông, cung cấp điện,... Người ta đã tính rằng có đến trên 70% những khác biệt về giá trị xuất khẩu trên đầu người là phụ thuộc vào trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng. Nếu không có đủ cảng, sân bay quốc tế, điện, đường... thì có nghĩa là chỉ có một bộ phận dân cư tham gia kinh tế đối ngoại. Những yếu tố của cơ sở hạ tầng không những phải được xây dựng hiện đại mà còn phải đồng bộ, và trong một thời hạn càng ngắn càng tốt. Chỉ cần một trong các yếu tố trên khiếm khuyết cũng đủ gây tổn hại cho các hoạt động kinh tế đối ngoại.

Cần phải có hàng chục tỷ USD để xây dựng những cơ sở hạ tầng trên đây. Vốn ngân sách nhà nước, kể cả nguồn vốn ODA cũng không thể đủ đáp ứng các nhu cầu to lớn này. Do vậy cần phải có quy hoạch tổng thể về cơ sở hạ tầng, nhà nước có thể tạm thời chuyển vốn đầu tư xây dựng các nhà máy sản xuất công nghiệp sang xây dựng cơ sở hạ tầng. Mở rộng các hình thức huy động vốn đa dạng, cần có chính sách để mọi thành phần kinh tế có thể tham gia kinh doanh cơ sở hạ tầng. Ngay những nước giàu như Mỹ, Nhật, nhà nước cũng không đủ tiền xây dựng các cơ sở hạ tầng, mà phải huy động các thành phần kinh tế khác. Nước ta nghèo hơn nên càng phải sử dụng các thành phần ngoài nhà nước. Thứ hai, khai thông các nguồn vốn cung ứng cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Các hoạt động kinh tế đối ngoại từ xuất nhập khẩu, du lịch đến đầu tư nước ngoài đều cần đến những nguồn vốn to lớn. Không có đủ vốn, cũng có nghĩa là kinh tế đối ngoại không hoạt động được. Những nguồn vốn này hiện đang dư thừa cả trong và ngoài nước. Hàng năm, hàng tỷ USD tiền gửi tiết kiệm đã không sử dụng được ở trong nước phải gửi ra các ngân hàng ở nước ngoài, nếu tính cả số tiền gửi ra nước ngoài qua các kênh không chính thức thì số tiền đó còn lớn hơn. Nguồn vốn tích trữ trong dân dưới nhiều dạng của cải khác nhau còn khá lớn. Nguồn vốn dư thừa trên thế giới phải tính đến hàng ngàn tỷ USD vấn đề là chúng ta chưa có một cơ chế thích hợp để thu hút nguồn vốn này cho hoạt động kinh tế đối ngoại. Trước hết cần mạnh dạn cho phép một số ngân hàng thương mại của ta liêndoanh với ngân hàng nước ngoài và cho phép các ngân hàng nước ngoài mở dịch vụ kinh doanh nội và ngoại tệ, cung...


Similar Free PDFs