Tiểu luận triết học Mac lênin PDF

Title Tiểu luận triết học Mac lênin
Author Tống Thanh Tâm
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 17
File Size 428.7 KB
File Type PDF
Total Downloads 61
Total Views 287

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊTIỂU LUẬN TRIẾT HỌCQuan hệ giữa xã hội với tự nhiênvà vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ởViệt NamHọ tên: Nguyễn Thủy Trang Lớp: Anh 19 – Khối 7 - Kinh tế - K Ngày sinh: 27/12/ Mã sinh viên: 0951010226 Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Huy QuangHà Nội, 2010T...


Description

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam

Họ tên: Nguyễn Thủy Trang Lớp: Anh 19 – Khối 7 - Kinh tế - K48 Ngày sinh: 27/12/1991 Mã sinh viên: 0951010226 Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Huy Quang

Hà Nội, 2010 1/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam

Họ tên: Nguyễn Thủy Trang Lớp: Anh 19 – Khối 7 - Kinh tế - K48 Ngày sinh: 27/12/1991 Mã sinh viên: 0951010226

Hà Nội, 2010 2/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

MỤC LỤC A.

MỞ ĐẦU.......................................................................................................4

B.

NỘI DUNG...................................................................................................5 1.

Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên.................................................5

2.

Tự nhiên – con người – xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất...6

3.

Tự nhiên – nền tảng của xã hội............................................................6

4.

Tác động của xã hội đến tự nhiên........................................................7

5.

Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội........8

6.

Môi trường – vấn đề của chúng ta........................................................9

II.

Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam.....................................10 1.

2.

Môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam...........................10 b)

Tài nguyên nước của Việt Nam......................................................10

c)

Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam............................................11

d)

Môi trường và tài nguyên biển của Việt Nam.................................11

e)

Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học.............................................11

f)

Vấn đề môi trường ở Việt Nam.......................................................13 Việt Nam hành động...........................................................................14

C.

KẾT LUẬN.................................................................................................16

D.

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................17

3/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

A. MỞ ĐẦU Trái Đất của chúng ta là một hành tinh kì diệu. Nó dang rộng cánh tay của mình để đón chào sự sống và bao dung chứa chấp tất cả các loại sinh vật. Nó là ngôi nhà chung duy nhất của tất cả chúng ta. Vậy mà kể từ khi xuất hiện, con người đã tự coi mình là bá chủ của Trái Đất, vì con người là sinh vật thông minh nhất, là sinh vật duy nhất có khả năng tư duy để hành động. Con người đã đến và làm biến đổi thế giới xung quanh mạnh mẽ hơn bất cứ một loài sinh vật nào cùng tồn tại. Trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, con người đã phát hiện ra rằng: sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quy luật sinh học mà quan trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Do vậy, con người rất quan tâm đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Trong một thời gian rất dài, hai khái niệm tự nhiên và xã hội được coi là hoàn toàn tách rời nhau, không liên quan đến nhau. Quan điểm này ngày nay vẫn còn tồn tại. Vì thế nhiều người đã có những hành động phá hủy thiên nhiên mà không hiểu được rằng họ đang phá hủy tương lai của chính con em mình. Đó thật là một sai lầm lớn, thực tế và lý luận khoa học đề chứng tỏ rằng tự nhiên và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó cùng nằm trong một tổng thể bao gồm tự nhiên, con người và xã hội. Con người và xã hội dựa trên nền tảng tự nhiên mà tồn tại và phát triển, nhưng chính trong quá trình tồn tại và phát triển ấy, nền tảng tự nhiên lại bị phá hủy. Đặc biệt là trong thời đại hiện nay, khi khoa học kĩ thuật phát triển mãnh mẽ và dân số toàn cầu đang bùng nổ thì tự nhiên và môi trường càng bị phá hủy mạnh hơn. Việt Nam cũng là một nước đang phát triển, đang trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, chúng ta cũng có những vấn đề về môi trường, chúng ta cần có quan điểm đúng đắn để giải quyết những vấn đề này. Vì những lý do trên, em chọn đề tài: “Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam”. 4/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

B. NỘI DUNG I.

Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên.

1.

Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên. Theo định nghĩa, tự nhiên theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng, vô tận. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người. Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quy luật sinh học mà quan trọng hơn là kết quả của các quá trình lao động. Đây là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Chính trong quá trình lao động, cấu tạo cơ thể của con người ngày càng hoàn thiện hơn và cũng chính trong quá trình lao động, nhu cầu trao đổi, hợp tác đã làm ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức. Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người, quá trình chuyển biến từ động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội. Vậy, xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” Như vậy, xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Tính đặc thù của bộ phận này thể hiện: Phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định.

5/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên. 2.

Tự nhiên – con người – xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất. Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Hơn thế nữa, tự nhiên – con người – xã hội còn nằm trong một chỉnh thể thống nhất. Theo nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới thì thế giới tuy vô cùng phức tạp, đa dạng và được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau song suy đến cùng có ba yếu tố cơ bản là tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba yếu tố này thống nhất với nhau trong một hệ thống bởi chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính, mối quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động. Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những quy luật nhất định, tất cả các quá trình trong tự nhiên, con người và xã hội đều chịu sự chi phối của những quy luật phổ biến nhất định ấy. Sự hoạt động của các quy luật đó đã nối liền các yếu tố của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn và phát triển không ngừng trong không gian và theo thời gian. Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Để trở thành một con người đích thực, con người cần được sống trong môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với người. Con người mang trong mình bản tính tự nhiên và bản chất xã hội. Chính vì thế, ta có thể nói rằng con người còn là hiên thân của sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên.

3.

Tự nhiên – nền tảng của xã hội. Xã hội và tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương tác với nhau. Đây là một mối quan hệ biện chứng hai chiều. Trong phần này, ta xét chiều thứ nhất là những tác động của tự nhiên lên xã hội loài người. Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Tự nhiên là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành trong sự tiến hóa của thế giới vật chất. Đồng thời, tự nhiên cũng là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự 6/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

sống của con người và cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho các hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mác, con người không thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu và tác động làm cho lao động của con người được thực hiện, từ đó lao động của con người sản xuất ra sản phẩm. Với tư cách là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội, tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội; có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội. 4.

Tác động của xã hội đến tự nhiên Tự nhiên tác động đến xã hội nhiều như thế nào thì xã hội cũng tác động ngược lại với tự nhiên như thế. Như ta đã biết, xã hội gắn bó chặt chẽ với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Lao động là đặc trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của con người với động vật. Song, lao động cũng là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên. Bởi "lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên". Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện ở chỗ: Tự nhiên cung cấp cho con người tất cả các nguồn vật chất vốn có của sinh quyển để con người sống và tiến hành lao động sản xuất; nhưng cũng chính quá trình sử dụng các nguồn vật chất của sinh quyển để sống và lao động sản xuất, con người đã làm biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả các thành phần khác của chu trình sinh học. Trong quá trình trao đổi chất này, nếu con người không kiểm tra, điều tiết việc sử dụng, khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng hoảng sinh thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội bị phá vỡ, sự sống của con người và xã hội loài người bị đe dọa. Do vậy, để giữ gìn môi trường tồn tại và phát triển của mình, con người phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, kiểm tra, điều tiết hợp lý việc bảo quản, 7/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

khai thác, sử dụng và tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên để đảm bảo cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội. 5.

Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, trong đó quan trọng nhất là trình độ phàt triển của xã hội và việc nhận thức, vận dụng quy luật tự nhiên, quy luật xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người. Thông qua hoạt động của mình, con người làm cho lịch sử xã hội và lịch sử tự nhiên gắn bó, quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định lẫn nhau ấy phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá nó là phương thức sản xuất – cách thức sản xuất ra của cải vật chất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định của con người. Sự ra đời của những phương thức sản xuất mới cao hơn những phương thức sản xuất trước đó đã quyết định những chuyển biến về chất của xã hội loài người, đưa xã hội loài người từ mông muội, dã man, sang xã hội văn mình. Ngày nay, mặc dù con người đã đạt đến đỉnh cao trong sản xuất là nền đại công nghiệp cơ khí tự động hóa, nhưng dưới chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – chế độ lấy lợi nhuận làm mục đích – thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà chủ yếu là đối tượng để khai thác, chiếm đoạt nhằm đạt được mục đích của mình. Khủng hoảng sinh thái đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống của cả nhân loại. Bởi vậy, con người không còn con đường nào khác là phải quay về chung sống với tự nhiên, thay đổi phương thức khai thác và sử dụng những tài nguyên thiên nhiên và quan trọng hơn là phải xóa bỏ chết độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa – nguồn gốc sâu xa phá hoại thiên nhiên để tiến tới việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người còn được thể hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn. 8/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con người sẽ tạo ra một thế giới hài hòa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn. Đây vừa là tiền đề, vừa là từng bước thực hiện việc điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên. Chỉ có nắm vững các quy luật của xã hội và triệt để vận dụng nó, con người mới xác định được đúng đắn mục đích của quá trình sản xuất và mới có ý thức tự giác lựa chọn những công cụ, phương tiện hợp lý để thực hiện mục đích đó, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của toàn xã hội trong mối quan hệ hài hòa tự nhiên – xã hội. 6.

Môi trường – vấn đề của chúng ta. Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống. Khái niệm môi trường bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở đây, ta chỉ đề cập đến môi trường tự nhiên hay còn gọi chung là môi trường sinh thái. Môi trường sinh thái không chỉ là điều kiện sinh sống của con người, nó cũng là điều kiện thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. song vai trò của nó ở những giai đoạn lịch sử khác nhau được thể hiện một cách khác nhau. Ở trình độ mông muội, khi con người chỉ biết chủ yếu săn bắn, hái lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người bị giới tự nhiên hoàn toàn thống trị. Cuộc sống của xã hội phụ thuộc chủ yếu vào môi trường tự nhiên. Khi con người văn mình hơn, nhất là khi khoa học – kỹ thuật phát triển thì con người đã từng bước chế ngự được tự nhiên, biết khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề ra đời từ những điều kiện sẵn có của 9/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

môi trường tự nhiên như: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, các ngành khai thác,… Song nhìn chung, xã hội vẫn còn phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên, do đó môi trường tự nhiên có ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội. Khi con người bất chấp quy luật phạm vi những nguyên tắc đảm bảo cho sự phát triển bền vững, biến “khai thác” thành “chiếm đoạt” tự nhiên thì môi trường tự nhiên không phải chỉ gây khó khăn cho quá trình sản xuất mà còn đe dọa đến sự sống còn của toàn xã hội. Biểu hiện trước hết của đe dọa đó là sự khan hiếm và cạn kiệt dần các nguồn tài nguyên thiên nhiên như rừng, đất, nước ngọt, động vật, thực vật, khoáng sản,…; là nạn ô nhiễm nặng nề môi trường sống; là các hiện tượng “hiệu ứng nhà kính”, “lỗ thủng tầng ozon”, sa mạc hóa, … Để có thể khắc phục tình trạng trên và thiết lập lại mối quan hệ hài hòa giữa xã hội với tự nhiên, xây dựng ý thức sinh thái, đặc biệt là đạo đức sinh thái để kết hợp mục tiêu kinh tế với mục tiêu sinh thái, đảm bảo cho hệ thống tự nhiên – xã hội. II.

Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam.

1.

Môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam. a) Tài nguyên đất của Việt Nam. Quỹ đất của Việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu ha, tổng diện tích đất bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng thứ 159 trên thế giới). Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất phù sa, đất mùn vàng đỏ hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu hơn 3 triệu ha... Tổng tiềm năng dự trữ quỹ đất nông nghiệp của Việt Nam là 10 - 11 triệu ha, trong đó gần 7 triệu ha được sử dụng vào nông nghiệp, 3 trên 4 trong số đó là trồng cây hàng năm. Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn, đất trũng úng nước, đất dễ bị thoái hóa, đất khó phục hồi là những vấn đề cần phải lưu ý.

b)

Tài nguyên nước của Việt Nam. Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên). 10/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520 km3/năm, của sông Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm. Nước ngầm có thể khai thác khoảng 2,7 triệu km3/ngày. Đến năm 2000, lượng nước lấy đi cho tiêu dùng ở Việt Nam tổng số khoảng 90 đến 100 km3 (xấp xỉ 30% lượng nước sản sinh ra trong lãnh thổ). c)

Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam. Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải nên Việt Nam rất giàu có về khoáng sản. Việt Nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới chỉ có 270 mỏ được khai thác gồm 32 loại khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu: than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn; dầu mỏ trữ lượng Vịnh Bắc Bộ là 500 triệu tấn, Nam Côn Sơn 400 triệu tấn, Cửu Long 300 triệu tấn, Vịnh Thái Lan 300 triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn; khí đốt thiên nhiên có trữ lượng lớn. Tài nguyên khoáng vật của Việt Nam được đánh giá là phong phú, lớn mạnh, tạo tiền đề cho sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta thành công.

d)

Môi trường và tài nguyên biển của Việt Nam. Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều tiềm năng về kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao. Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, ngoài ra còn có nhiều hải sản quý như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai. Ven bờ có sò, ngao, điệp, hàu, phi,... với sản lượng hàng chục vạn tấn một năm. Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành tinh. Hơn 100 năm gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm.

e)

Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học. Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng. 11/17

Tiểu luận Triết học

Nguyễn Thủy Trang

Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gien động vật hoang dã. Rừng ngập mặn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thảm thực vật phong phú của rừng Việt Nam đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam có một hệ động vật và nguồn tài nguyên động vật vô cùng phong phú, đa dạng và đầy sự hấp dẫn. Chính nguồn tài nguyên động vật này là nguồn cung cấp thực phẩm, là nguồn dược liệu độc đáo, là nguyên liệu chế biến ra các mặt hàng mỹ nghệ trang điểm cho cuộc sống. Tuy nhiên tài nguyên rừng Việt Nam lại chưa được khai thác hợp lý. Trung bình hàng năm Việt Nam mất 200 ngàn ha rừng. Độ che phủ rừng từ 37% năm 1943, năm 2000 còn khoảng 20%(66.420 km2). Về đa dạng sinh học, Việt nam có độ đa dạng sinh học cao: Về thực vật: Có khoảng 12.000 loài cây có mạch, 10% là đặc hữu. 800 loài rêu, 600 loài nấm lớn. 2300 loài dùng làm lương thực, thực phẩm, thức ăn cho gia s...


Similar Free PDFs