ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường PDF

Title ưu thế và khuyết tật của nền kinh tế thị trường
Author Thùy Ngọc
Course Kinh tế Chính trị Mác-Lê Nin
Institution Đại học Kinh tế Quốc dân
Pages 6
File Size 134.8 KB
File Type PDF
Total Downloads 118
Total Views 418

Summary

Ưu thế& khuyết tật của nền kinh tế thị trường1. Khái quát chung về nền kinh tế thị trườngNền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, đ...


Description

Ưu thế& khuyết tật của nền kinh tế thị trường 1.1. Khái quát chung về nền kinh tế thị trường Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường. 1.1.1. Ưu thế của nền kinh tế thị trường Một là, nền kinh tế thị trường luôn tạo động lực cho sự sáng tạo các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể luôn có cơ hội để tìm động lực cho sự sáng tạo của mình. Thông qua vai trò của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hữu hiệu kích thích sự sáng tạo trong hoạt động của các chủ thể kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho họ để tăng năng suất lao động, tăng hiệu quả sản xuất, làm cho nền kinh tế hoạt động hiệu quả. Hai là, nền kinh tế thị trường luôn phát huy tốt nhất tiềm năng của mọi chủ thể cũng như lợi thế quốc gia. Trong nền kinh tế thị trường, mọi tiềm năng, lợi thế đều có thể được phát huy và trở thành lợi ích đóng góp cho xã hội. Thông qua vai trò gắn kết của thị trường mà nền kinh tế thị trường trở thành phương thức hiệu quả hơn so với nền kinh tế tự cấp tự túc hay nền kinh tế kế hoạch hóa để phát huy tiềm năng, lợi thế của từng thành viên, từng vùng miền trong quốc gia trong quan hệ kinh tế với phần còn lại của thế giới. Ba là, nền kinh tế thị trường luôn tạo ra các phương thức để thỏa mãn tối đa nhu cầu của con người, từ đó thúc đẩy tiến bộ, văn minh xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, các thành viên của xã hội luôn có thể tìm thấy cơ hội tối đa để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nền kinh tế thị trường với sự tác động của các quy luật thị trường luôn tạo ra sự phù hợp giữa khối lượng, cơ cấu sản xuất với khối lượng, cơ cấu nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Nhờ đó, nhu cầu tiêu dùng về các loại hàng hóa, dịch vụ khác nhau được đáp ứng kịp thời; người tiêu dùng được thỏa mãn nhu cầu. 1.1.2. Khuyết tật của nền kinh tế thị trường Một là, trong nền kinh tế thị trường luôn tiềm ẩn những rủi ro khủng hoảng. Sự vận động của cơ chế thị trường không phải khi nào cũng tạo được những cân đối, do đó, luôn tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng. Khủng hoảng có thể diễn ra cục bộ cũng như trên phạm vi tổng thể. Khủng hoảng có thể xảy ra với mọi loại hình thị trường. Sự khó khăn đối với các nền kinh tế thị trường thể hiện ở chỗ, các quốc gia rất khó dự báo chính xác thời điểm xảy ra khủng hoảng. Hai là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được xu hướng cạn kiệt tài nguyên không thể tái tạo, suy thoái môi trường tự nhiên, môi trường xã hội. Do các chủ thể sản xuất trong nền kinh tế thị trường luôn đặt mục tiêu lợi nhuận tối đa nên luôn tạo ra ảnh hưởng tiềm ẩn đối với nguồn lực tài nguyên, suy thoái môi trường. Cũng vì động cơ lợi nhuận, các chủ thể sản xuất kinh doanh có thể vi phạm cả nguyên tắc đạo đức để chạy theo mục tiêu làm giàu thậm chí phi pháp, góp phần gây ra sự xói mòn đạo đức kinh doanh, thậm chí cả đạo đức xã hội. 1

Ba là, nền kinh tế thị trường không tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc trong xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân hóa xã hội về thu nhập, về cơ hội là tất yếu. Bản thân nền kinh tế thị trường không thể tự khắc phục được hiện tượng phân hóa sâu sắc. Các quy luật thị trường luôn phân bổ lợi ích theo mức độ và loại hình hoạt động tham gia thị trường, cộng với tác động của cạnh tranh mà dẫn đến sự phân hóa như một tất yếu. 1.2. Vai trò của nhà nước trong việc hạn chế, khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường 1.2.1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm lợi ích của các chủ thể kinh tế Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng diễn ra trong một môi trường nhất định. Môi trường càng thuận lợi thì hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không ngừng mở rộng. Môi trường vĩ mô không tự hình thành, mà phải được nhà nước tạo lập. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng được môi trường pháp luật thông thoáng, bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia phải tuân thủ các thông lệ quốc tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế còn là tạo lập môi trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường. 1.2.2. Điều hòa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội Do mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể và tác động của các quy luật thị trường, sự phân hóa về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư làm cho lợi ích kinh tế của một bộ phận dân cư được thực hiện rất khó khăn. Vì vậy, nhà nước cần có các chính sách, trước hết là các chính sách phân phối thu nhập nhằm bảo đảm hài hòa các lợi ích kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị trường, một mặt, phải thừa nhận sự chênh lệch về mức thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là khách quan; mặt khác phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng. Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng, thậm chí xung đột xã hội. Đó là những vấn đề mà chính sách phân phối thu nhập phải tính đến. 1.2.3. Kiểm soát, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với sự phát triển xã hội Phân phối thu nhập công bằng góp phần quan trọng đảm bảo hài hòa các lợi ích kinh tế. Ở mỗi giai đoạn phát triển, người dân phải đạt được mức sống tối thiểu. Để làm được điều này, nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo, tạo cơ hội tiếp cận các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là giải pháp cần thiết để loại bỏ những vấn đề về thu nhập. Bên cạnh đó, các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, làm hàng giả, hàng nhái; lừa đảo… tồn tại khá phổ biến. Các hoạt động này càng gia tăng, càng làm tổn hại lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Nhà nước nghiêm cấm các hình thức thu nhập bất hợp pháp, mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định của pháp luật. 2

CHƯƠNG 2: LIÊN HỆ THỰC TIỄN 2.1. Nền kinh tế Việt Nam trước năm 1986 Lịch sử kinh tế Việt Nam giai đoạn 1976-1986 hay còn gọi là “Thời kỳ bao cấp” là giai đoạn áp dụng mô hình kinh tế cũ ở miền Bắc cho cả nước sau khi thống nhất và là giai đoạn của những tìm tòi nhằm thoát khỏi mô hình này. Thời bao cấp là tên gọi để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh hoạt kinh tế đều được nhà nước bao cấp, diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa. Theo đó thì kinh tế tư nhân dần bị xóa bỏ, nhường chỗ cho kinh tế do nhà nước chỉ huy. Trong nền kinh tế kế hoạch, hàng hóa được phân phối theo chế độ tem phiếu do nhà nước nắm toàn quyền điều hành, hạn chế đến tối đa việc mua bán trên thị trường hoặc vận chuyển tự do hàng hoá từ địa phương này sang địa phương khác. Bản thân cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung còn mang rất nhiều hạn chế, khuyết tật kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta và nó chỉ thực sự bộc lộ những khuyết điểm sau năm 1975 khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng và phát triển kinh tế. Đầu tiên, cơ chế này thủ tiêu cạnh tranh, kìm hãm sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, triệt tiêu động lực kinh tế cũng như không kích thích tính năng động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Nhà nước chỉ huy nền kinh tế làm cho đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trở nên quan liêu, lộng quyền. Khi nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn phát triển theo chiều sâu dựa trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học – công nghệ thì cơ chế kinh tế kế hoạch hóa càng bộc lộ những hạn chế của nó, làm cho nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của nước ta lâm vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng nghiêm trọng. 2.2. Nền kinh tế Việt Nam từ năm 1986 đến nay Nhận ra những bất cập của cơ chế kinh tế hiện hành, nhà nước bắt đầu có một số thay đổi trong chính sách quản lý kinh tế. Trong thời kỳ này, nước ta đã thực hiện đường lối đổi mới, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và định hướng xã hội chủ nghĩa. Với chủ trương này, đất nước ta đã đạt được một số thành tựu nhất định. Một trong những thành tựu kinh tế to lớn của thời kỳ đổi mới là phát triển sản xuất nông nghiệp, mà nội dung cơ bản là thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn, đánh dấu sự mở đầu của thời kỳ đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn nước ta. Ngành nông nghiệp đã giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, đưa Việt Nam từ nước thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Sản xuất công nghiệp đi dần vào thế phát triển ổn định, những sản phẩm công nghiệp quan trọng phục vụ sản xuất và tiêu dùng của dân cư đều tăng cả về số lượng và chất lượng. Do sản xuất, kinh doanh hồi phục và có bước phát triển nên siêu lạm phát bước đầu đã được kiềm chế và đẩy lùi. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế và các lĩnh vực xã hội khác được củng cố và tăng cường. Sau mười năm nỗ lực phấn đấu, đến giữa năm 2000, cả nước hoàn thành 3

chương trình mục tiêu chống mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Chính sách cải cách tiền lương trong thời kỳ này đã thúc đẩy phát triển sản xuất làm cho đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hoạt động kinh tế đối ngoại phát triển toàn diện và sâu rộng, đưa nước ta hội nhập ngày càng đầy đủ với kinh tế khu vực và thế giới. Đặc biệt, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã thúc đẩy việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. Gia nhập ASEAN, APEC, ASEM và WTO đã làm cho vị thế của Việt Nam thay đổi đáng kể trên thế giới. Với việc mở rộng thị trường và quan hệ hợp tác như vậy, ta đã ngày càng tham gia sâu rộng vào các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng có tiếng nói quan trọng với ý thức trách nhiệm cao trong các diễn đàn khu vực và thế giới góp phần mở rộng thị trường, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện cho mô hình kinh tế hướng về xuất khẩu của ta, mở rộng thị trường hàng nhập khẩu, góp phần phục vụ chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đồng thời từng bước khẳng định được hình ảnh và vị thế của một quốc gia thành công trong quá trình đổi mới. Hệ thống luật pháp trong nước cũng không ngừng được sửa đổi theo hướng phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thông thoáng, minh bạch hơn, bảo đảm sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, nền kinh tế thị trường cũng có những hạn chế riêng của nó. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn ở trình độ thấp làm cho phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm. Một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, tuy nhiên trong nhiều ngành kinh tế vẫn sử dụng máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới. Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc... còn lạc hậu, kém phát triển nên chưa kết nối được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá thống nhất. Doanh nghiệp chạy theo mục tiêu lợi nhuận, hạn chế chi phí sản xuất đến mức tối đa nên xuất hiện nhiều hiện tượng tiêu cực trên thị trường hàng hóa, dịch vụ như hàng giả, hàng nhái và thực phẩm bẩn. Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi nhuận tối đa, vì vậy họ còn có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hiệu quả kinh tế - xã hội không được bảo đảm. Phân phối thu nhập không công bằng, vì vậy sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn đến sự phân hoá giàu nghèo, sự phân cực về của cải, tác động tiêu cực đến đạo đức và tình người. Một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi khủng hoảng kinh tế và thất nghiệp. Nhằm đứng vững trên con đường đổi mới và phát triển, nhà nước ta đã có những chính sách nhất định nhằm khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Các hoạt động kinh tế luôn diễn ra trong môi trường nhất định. Môi trường vĩ mô thuận lợi không thể tự hình 4

thành, mà phải được nhà nước thành lập. Trước hết là bắt đầu bằng việc giữ vững ổn định chính trị. Nhà nước bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ luật pháp mà nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ. Trong những năm vừa qua, hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang thay đổi tích cực. Môi trường kinh tế vĩ mô đòi hỏi nhà nước phải đưa ra những chính sách phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế trong từng giai đoạn. Thực tế cho thấy, các chính sách kinh tế của Việt Nam đang từng bước đáp ứng được yêu cầu này. Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích tối đa hóa lợi nhuận hẹp hòi của mình mà lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống của con người. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để mọi tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân tham gia hoạt động bảo vệ môi trường, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, vận động, kết hợp áp dụng các biện pháp hành chính, kinh tế và các biện pháp khác để xây dựng ý thức tự giác, kỷ cương trong hoạt động bảo vệ môi trường, ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc; tập trung xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; phục hồi môi trường ở các khu vực bị ô nhiễm, suy thoái; chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư. Không những thế mà nhà nước còn đầu tư bảo vệ môi trường, phát triển đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường và bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường trong ngân sách nhà nước hằng năm. Về vấn đề hàng giả, hàng nhái và kém chất lượng cũng như thực phẩm bẩn, nhà nước tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ thực phẩm để công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm từng bước được kiểm soát chặt chẽ và hiệu quả, tổ chức tốt công tác truyền thông về an toàn thực phẩm cho người dân cũng như người sản xuất kinh doanh các mặt hàng thực phẩm, xây dựng khuôn khổ luật pháp nhằm tiến tới việc xã hội hóa trong công tác bảo đảm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Nhà nước cần thực hiện có hiệu quả các chính sách xóa đói, giảm nghèo, khắc phục tư tưởng bao cấp, ỷ lại. Tiếp theo, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích người dân nghèo kinh doanh, làm giàu hợp pháp. Bên cạnh đó, các hoạt động bất hợp pháp như buôn lậu, lừa đảo, tham nhũng… vẫn còn tồn tại khá phổ biến. Để chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp trên, trước hết, phải có bộ máy nhà nước liêm chính, có hiệu lực. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ, công chức nhà nước phải thực sự bình đẳng. Thực hiện minh bạch, công khai mọi cơ chế, chính sách và quy định của nhà nước. Nhờ đó mà người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình, đồng thời, các cơ 5

quan công quyền, cán bộ, công chức nhà nước được giám sát, tránh được tình trạng lạm quyền, thiếu trách nhiệm, tham nhũng.

6...


Similar Free PDFs