Mã số học viên - Tran Thanh Thuy - H895 - Triết PDF

Title Mã số học viên - Tran Thanh Thuy - H895 - Triết
Author Thao Phuong
Course Nhập môn Hệ Điều Hành
Institution Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 13
File Size 193.4 KB
File Type PDF
Total Downloads 412
Total Views 721

Summary

HỌC VIỆN CÁN BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA LÝ LUẬN CƠ SỞ*****TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌCTRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNHĐỀ TÀITÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI. Ý NGHĨA PHƯƠNGPHÁP LUẬN RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY. LIÊN HỆVIỆC XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAYHọc viên:...


Description

HỌC VIỆN CÁN BỘ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH KHOA LÝ LUẬN CƠ SỞ *****

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC TRUNG CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ HÀNH CHÍNH

ĐỀ TÀI TÍNH ĐỘC LẬP TƯƠNG ĐỐI CỦA Ý THỨC XÃ HỘI. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN RÚT RA TỪ VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY. LIÊN HỆ VIỆC XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Học viên:

Trần Thanh Thuỷ

Lớp:

H895

Mã số học viên: Đơn vị công tác:

Bệnh viện Quận 1

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 3 năm 2022

MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU..........................................................................................................3 NỘI DUNG...................................................................................................................4 I. CƠ SỞ LÝ LUẬN..................................................................................................4 1. Khái niệm tồn tại xã hội..........................................................................................4 2. Khái niệm ý thức xã hội..........................................................................................4 3. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội................................................................5 II. LIÊN HỆ XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY....8 III. KẾT LUẬN..........................................................................................................13

2

PHẦN MỞ ĐẦU Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội là một trong những nội dung quan trọng và phức tạp của chủ nghĩa Mác – Lênin. Nguyên lý này biểu hiện một cách sinh động việc giải quyết các vấn đề cơ bản của triết học trong các lĩnh vực, hiện tượng thuộc đời sống xã hội trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và của phép biện chứng duy vật. Đi làm rõ nội dung của nguyên lý này là nhằm tìm hiểu khả năng nhận thức của con người được biểu hiện sâu sắc, phong phú khi phản ánh tồn tại xã hội. Nói một cách khác, việc tìm hiểu tính độc lập tương đối của ý thức xã hội, chính là làm rõ tính năng động, tích cực và sức mạnh của con người trong quá trình nhận thức và cả biến hiện thực khách quan. Ở nước ta, kể từ ngày có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhân dân ta đã làm nên những chiến thắng lịch sử, vô cùng vĩ đại. Việc đề ra những chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng ý thức xã hội mới cũng đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết. Tất cả những điều này đều liên quan đến việc nhận thức và vận dụng đúng đắn tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Chính vì thế, tôi chọn chủ đề ”Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu vấn đề này. Liên hệ việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay” để học tập và nghiên cứu.

3

NỘI DUNG

I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.

Khái niệm tồn tại xã hội:

Tồn tại xã hội là đời sống vật chất cùng toàn bộ những điều kiện sinh hoạt, quan hệ vật chất của xã hội. Những yếu tố cơ bản của đời sống vật chất và điều kiện sinh hoạt vật chất bao gồm phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số. Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. Trong các quan hệ vật chất của xã hội thì quan hệ giữa người với tự nhiên và quan hệ vật chất giữa người với nhau là cơ bản. Những mối quan hệ này xuất hiện trong quá trình hình thành xã hội loài người và tồn tại không phụ thuộc vào ý thức xã hội. Các quan hệ vật chất khác giữa gia đình, giai cấp, dân tộc v.v cũng có vai trò nhất định đối với tồn tại xã hội. Như vậy, tồn tại xã hội là mặt vật chất xã hội. Mỗi giai đoạn phát triển của loài người có một đời sống vật chất riêng - một tồn xã hội riêng. Mặt khác yếu tố của tồn tại xã hội thường xuyên thay đổi nên tồn tại xã hội có tính lịch sử. 2.

Khái niệm ý thức xã hội:

Ý thức xã hội là mặt tinh thần đời sống xã hội, bao gồm toàn bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng,v.v…của những cộng đồng xã hội nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội đó trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định. Ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội, bao gồm những trạng thái tâm lý xã hội, những quan điểm chính trị, tư tưởng triết học, pháp quyền, thẩm mỹ, đạo đức,v.v…Như vậy, chính tồn tại xã hội là nguồn gốc của ý thức xã hội. Ý thức xã hội là hiện tượng phức tạp, tuỳ theo cách xem xét mà có thể phân lạoi khác nhau. Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội bao gồm: + Ý thức chính trị: là hình thái của ý thức xã hội, phản ánh những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, lợi ích giai cấp, địa vị giữa các giai cấp, các dân tộc hay giữa các quốc gia, cũng như thái độ của các giai cấp đối với quyền lực nhà nước trong xã hội.Ý thức chính trị bao gồm: ý thức chính trị thông thường, hệ tư tưởng chính trị. 4

+ Ý thức pháp quyền ra đời gắn liền với xã hội có giai cấp và nhà nước. Ý thức pháp quyền là hệ thống các quan điểm của một giai cấp về bản chất, vai trò của pháp luật; về quyền hạn, nghĩa vụ của các thành viên trong xã hội, của nhà nước, các tổ chức xã hội trên cơ sở những nguyên tắc đã được pháp luật và xã hội thừa nhận, thể hiện về tính hợp pháp hay không hợp pháp của hành vi con người; cùng những nhận thức và tính cảm của con người trong việc thực thi luật pháp. Ý thức pháp quyền luôn mang tính giai cấp. Trong xã hội có giai cấp thí các giai cấp có ý thức pháp quyền khác nhau. Tuy nhiên trong mỗi chế độ xã hội chỉ có một hệ thống pháp luật của giai cấp thống trị nhằm bảo vệ, củng cố những quan hệ, trật tự xã hội, lợi ích của giai cấp thống trị xã hội. + Ý thức đạo đức là mặt tinh thần của đời sống xã hội, nó hình thành rất sớm cùng với tồn tại xã hội loài người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về thiện – ác, lương tâm – trách nhiệm; hạnh phúc, công bằng,v.v… và về hệ thống những quy tắc, chuẩn mực đánh giá, điêu chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội và cá nhân với cá nhân trong xã hội.Mặt khác nó còn bao hàm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức của con người. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức cũng mang tính giai cấp. Ý thức đạo đức mang tính chi phối trong toàn xã hội bao giờ cũng là ý thức đạo đức của giai cấp thống trị. + Ý thức tôn giáo là những tình cảm, tâm trạng, quan điểm , tư tưởng, tín điều tôn giáo,v.v… phản ánh hoang đường, hư ảo đời sống hiện thực khách quan tồn tại xã hội với những nhu cầu tinh thần của con người trong những điều kiện lịch sử nhất định. + Ý thức thẩm mỹ là toàn bộ những xúc cảm, rung động, thị hiếu, quan điểm, lý tưởng phản ánh mối quan hệ thẩm mỹ của con người với đời sống hiện thực khác quan. Theo trình độ phản ánh, ý thức xã hội được chia thành ý thức thông thường và ý thức lý luận. Ngoài cách phân chia trên, người ta còn chia ý thức xã hội theo hai cấp độ: tâm lý xã hội và hệ tư tưởng. 3.

Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội:

Theo triết học Mác – Lênin, ý thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định. Tuy nhiê, ý thức xã hội không phụ thuộc vào tồn tại xã hội theo một cách thụ động. Thông qua hoạt động thực tiễn của con người, ý thức xã hội có thể tác động trở lại tồn tại xã hội. Hơn nữa, trong quá trình phát triển của mình, mặc dù chịu 5

sự quy định của các quy luật của tồn tại xã hội, nhưng ý thức xã hội có những quy luật riêng của mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội còn thể hiện ở chức năng đặc thù của ý thức xã hội như một nhân tố sáng tạo tích cực của con người ra đời sống xã hội của chính mình. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội biểu hiện ở những điểm sau: Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội: Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội thì khi tồn tại xã hội biến đổi sẽ tất yếu dẫn tới những sự biến đổi của ý thức xã hội (ý thức xã hội cũ mất đi và làm nảy sinh ý thức xã hội mới). Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Trái lại, nhiều yếu tố của ý thức xã hội (trong đời sống tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội) có thể còn tồn tại rất lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản sinh ra nó đã được thay đổi cản bản. Mặt khác không phải mọi yếu tố của ý thức xã hội mới đều ngay lập tức nảy sinh trên cơ sở tồn tại xã hội mới. Sở dĩ như vậy là vì: Một là, do bản chất của ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn tại xã hội cho nên nói chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn, diễn ra vơi tốc độ nhanh mà ý thức không thể phản ánh kịp. Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội. Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyèn bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ. Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội: Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt truớc sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con nguời, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên, suy đến cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó: Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy ràng, những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan 6

hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế. Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất gai cẩp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại. V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, văn hóa xã hội chủ nghĩa cần phải phát huy những thành tựu và truyền thống tốt đẹp nhất của nền văn hóa nhân loại từ cổ chí kim. Trên cơ sở thế giới quan mácxít, Người viết: “Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số những kiến thức mà loài người đã tích lũy được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”. Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm cho trong mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp tư tồn tại xã hội. Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, thông thường ở mỗi thời đại, tùy theo những hoàn cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hàng đầu và ác động mạnh đến các hình thái ý thức khác. Ở Hy Lạp thời cổ đại, triết học và nghệ thuật đã từng đóng vai trò đậc biệt quan trọng. Ở Tây Âu thời trung cổ, tôn giáo đã có một ảnh hưởng mạnh mẽ đến mọi mặt tinh thần của xã hội như: triết học, đạo đức, nghệ thuật, chính trị, pháp quyền. Các nước Tây Âu ở giai đoạn lịch sử sau này thì ý thức chính trị lại đóng vai trò to lớn, tác động mạnh mẽ đến các hình thái ý thức xã hội khác. Ở Pháp từ nửa sau thế kỷ XVIII và ở Đức cuối thế kỷ XIX, triết học và văn học là công cụ quan trọng nhất để tuyên truyền những tư tưởng chính trị, là vũ đài của cuộc đấu tranh chính trị của các lực lượng xã hội tiên tiến. Ngày nay, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức xã hội, ý thức chính trị thường có vai trò đặc biệt quan trọng. Ý thức chính trị của giai cấp cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiểu hướng tiến bộ của các hình thái ý thức khác. Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội: Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những phê phán quan điểm duy tâm (tuyệt đối hóa vai trò của ý thức xã hội) mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường hay “chủ nghĩa duy vật kinh tế” (tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội). Theo Ph.Ăngghen: “Sự phát triển của chính trị, pháp luật triết học, tôn giáo, văn hóa, nghệ thuật, v.v… đều dựa trên cơ sở sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cả chúng cũng ảnh hường lẫn nhau và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh hưởng 7

của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưownrg vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của tư tưởng trong quần chúng, v.v.. Cũng do đó, ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội. Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội đã chỉ ra bức tranh phức tạp trong lịch sử phát triển của ý thức xã hội và đời sống tinh thần xã hội nói chung. Nó bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Ý nghĩa phương pháp luận của việc nắm vững tính đốc lập tương đối của ý thức xã hội: Một là, ý thức xã hội mới không hình thành một cách tự phát mà hình thành một cách tự giác, lâu dài, dưới sự lạnh đạo của Đảng Công sản với sự tham gia tíhc cực của quảng đại quần chúng nhân dân. Hai là, ý thức xã hội mới là kết quả của sự kế thừa toàn bộ những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng dân tộc và nhân loại, đồng thời đấu tranh không khoan nhượng với những ý thức lạc hậu, phản tiến bộ. Ba là, hình thành ý thức xã hội phải gắn liền với phát triển kinh tế, củng cố quan hệ sản xuất chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. II.

LIÊN HỆ XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là toàn bộ quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ngoài hệ tư tưởng, nó còn được biểu hiện ra ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong 8

cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”. Có thể nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là định hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay. Cùng với định hướng cơ bản trong việc phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũng tiếp tục khẳng định một số định hướng lớn trong quá trình xây dựng ý thức xã hội mới. Vấn đề này có thể khái quát lại trên một số điều cơ bản sau: Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Về bản chất, xã hội mới là xã hội dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nước ta là nước dân chủ Bao nhiêu quyền lợi đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công cuộc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Đây là tư tưởng cơ bản khẳng định chủ thể tích cực cũng là đối tượng phục vụ chính của xã hội mới. Ý thức xã hội mới phản ánh lợi ích của nhân dân và chính do nhân dân xây dựng. Tinh thần này được thể hiện trong các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước, trong các chính sách cụ thể của từng ngành, từng địa phương. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân dân, phản ánh lợi ích của nhân dân. Nhân dân có quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng, hoạch định và thi hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; xây dựng, tuyên truyền, quảng bá, phát triển ý thức xã hội mới. 9

Để làm tốt vai trò lãnh đạo, Đảng phải đổi mới, tự chỉnh đốn nhằm nâng cao năng lực, sức chiến đấu mà trước hết là bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng. Thứ hai, xây dựng ý thức xã hội mới trên cơ sở đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho văn hóa thực sự trở thành mục tiêu, động lực của phát triển, thành nền tảng tinh thần của xã hội. Sự phát triển xã hội không chỉ có đời sống vật chất, mà còn có đời sống tinh thần. Đó là hai mặt không thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ có thể làm giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển. Bên cạnh kinh tế, văn hóa luôn đóng vai trò quyết định trong quá trình phát triển và sự trường tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Quan điểm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được Đảng ta đề cập đến từ rất sớm, được phản ánh trong Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943), trong các văn kiện sau đó của Đảng. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII (1991), Đảng ta chỉ rõ, xã hội mà chúng ta xây dựng là xã hội có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mốc đánh giá sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn hóa của Đảng thể hiện ở Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong Văn kiện này, Đảng ta đã khẳng định: trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới, chúng ta không chỉ chú ý giữ gìn, kế thừa những giá trị và bản sắc văn hóa dân tộc, mà còn phải chú trọng tiếp thu, kế thừa tinh hoa văn hóa của nhân loại. Thứ ba, xây dựng ý thức xã hội mới gắn với việc tăng cường học tập lý luận, tuyên truyền, giáo dục, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho hệ tư tưởng của Đảng trở thành nền tảng và kim chỉ nam cho nhận thức, hành động của toàn Đảng và nhân dân. Bài học đầu tiên từ 5 bài học mà Đảng ta đã rút ra sau 20 năm đổi mới là: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đây không phải là mới, bởi tinh thần này đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ những ngày đầu cách mạng. Năm 1939, khi đưa ra quan điểm của mình về đường lối của Đảng trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ (1936-1939), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Phải tổ chức học tập để có hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và chính trị cho các đảng viên”. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đi vào giai đoạn quyết định, trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần th...


Similar Free PDFs