Quy luật lượng chất và liên hệ thực tế qua quá trình học tập của học sinh, sinh viên. PDF

Title Quy luật lượng chất và liên hệ thực tế qua quá trình học tập của học sinh, sinh viên.
Author Minh Anh Vũ
Course Triết học Mác Lênin
Institution Học viện Ngân hàng
Pages 17
File Size 295.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 495
Total Views 808

Summary

H C VI N NGÂN HÀNGỌ ỆKHOA LÝ LU N CHÍNH TRẬ ỊBÀI T P NHÓMẬH C PHÂẦN: TRIẾẾT H C MÁC-LẾNINỌ ỌCH ĐẾẦ: Quy lu t chuy n hóa t nh ng thay đ i vềề l ng thànhỦ ậ ể ừ ữ ổ ượ nh ng thay đ i vềề chấất và ng c l i v i quá trình h c t p c a sinhữ ổ ượ ạ ớ ọ ậ ủ viền hi n nayệ.NHÓM 3L p: K24QTKDDớThành viền: 1. ...


Description

H ỌC VI ỆN NGÂN HÀNG KHOA LÝ LU ẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP NHÓM H Ọ C PHÂẦN: TRIẾẾT HỌC MÁC-LẾNIN

CH ỦĐẾẦ: Quy lu ật chuy ển hóa t ừnh ữ ng thay đ ổ i vềề lượng thành nh ng ữ thay đ iổvềề chấất và ngượ c lại với quá trình học tập của sinh viền hiện nay.

NHÓM 3

Lớp: K24QTKDD Thành viền: 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8.

Phạm Lê Khanh - 24A4031216 Hà Trà My- 24A4031489 Trần Mai Linh- 24A4030335 Vũ Quỳnh Anh- 24A4032644 Chu Thanh Hà- 24A4032843 Vũ Minh Anh- 24A4030158 Nguyễn Minh Khuê - 24A4031219 Nguyễn Thị Hồng Nhung-24A4030337

MỤC LỤC A. MỞ ĐẦU................................................................................................. B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận 1. Khái niệm chất và lượng..................................................................... 2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng...................................... 3.Ý nghĩa phương pháp luận ................................................................. II. Liên hệ thực tiễn 1. Đôi nét về hoạt động tích lũy kiến thức của học sinh......................... 2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình tích lũy kiến thức của học sinh,sinh viên............................................................................ 3. Vận dụng quy luật trong quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên Đại Học...................................................................................................................... C. KẾT THÚC.......................................................................................................

A. MỞ ĐẦU Trong cuộc sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn màu muôn vẻ, con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của sự vật hiện tượng, từ đó hình thành nên các khái niệm “quy luật”. Các quy luật của tự nhiên, xã hội cũng như của tư duy con người đều mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng vào thực tế. Hiểu được điều đó triết học chủ nghĩa Mác- Lênin đã khái quát các quy luật, trong đó có quy luật “chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại” - đây là một trong ba quy luật của phép biện chứng duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động và phát triển. Quy luật "chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại" là quy luật cơ bản, phổ biến về phương thức chung của các quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Quy luật này chỉ ra cách thức chung nhất của sự vận động và phát triển khi cho thấy sự thay đổi về chất chỉ xảy ra khi sự vật, hiện tượng đã có những thay đổi về lượng đạt đến ngưỡng nhất định. Quy luật cũng chỉ ra tính chất của sự vận động và phát triển khi cho thấy sự thay đổi về lượng của sự vật hiện tượng diễn ra từ từ kết hợp với sự thay đổi nhảy vọt về chất làm cho sự vật hiện tượng vừa tiến bước tuần tự vừa có những bước đột phá vượt bậc. Việc nhận thức quy luật này có ý nghĩa to lớn trong thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. Muốn cho sự vật, hiện tượng phát triển cần đề ra phương hương, cách thức , áp dụng hiệu quả quy luật này. Đặc biệt đối với đối với sinh viên Đại học - đây là giai đoạn có nhiều thay đổi về môi trường sống, sinh hoạt và học tập, đòi hỏi sự thích nghi là cần thiết. Việc nhận thức và vận dụng đúng đắn "Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại" sẽ có ý nghĩa rất lớn, thông qua đó xây dựng cho mình phương pháp học tập và rèn luyện phù hợp với bản thân và điều kiện sống. Đó cũng là lý do, nhóm em quyết định lựa chọn đề tài: “Vận dụng Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại vào quá trình học tập và rèn luyện của sinh viên” làm đề tài của nhóm. Với bài tiểu luận này, chúng em mong muốn tiếp cận và làm sáng tỏ phần nào nội dung và ý nghĩa của quy luật quan trọng này và từ đó rút ra được những bài học bổ ích trong học tập và cuộc sống. Vì trình độ kiến thức còn hạn chế, nên trong bài chúng em còn nhiều sai xót, rất mong thầy thông cảm và sửa chữa để giúp chúng em hoàn thiện kiến thức hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

B. NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận 1 . Khái niệm a, Chất Thế giới có vô vàn sự vật hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có những chất đặc trưng để làm nên chính chúng. Nhờ đó mà có thể phân biệt sự vật, hiện tượng nàyvới sự vật, hiện tượng khác. Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng. Là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng khác. Ví dụ:.Nguyên tố đồng có nguyên tử lượng là 63,54 đvC, nhiệt độ nóng chảy là 1083C, nhiệt độ sôi là 2880C…những thuộc tính này nói lên những chất riêng của đồng, để phân biệt nó với các kim loại khác. .Hình tròn là vùng trong mặt phẳng giới hạn bởi một vòng tròn phân biệt với hình vuông là hình có 4 cạnh bằng nhau và 4 góc bằng nhau . * Đặc điểm của chất: -Chất mang tính khách quan: chất là cái vốn có của sự vật hiện tượng, nằm bên trong sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người. Chẳng hạn vị mặn của muối, ngọt của đường là cái khách quan, tồn tại ở bên trong chứ không phải do một lực lượng siêu nhiên, ý muốn chủ quan của con người mà có thể áp đặt được nó. -Chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính, các yếu tố của sự vật. .Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là cái vốn có của sự vật. Những thuộc tính của sự vật chỉ được bộc lộ ra bên ngoài qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với các sự vật khác. Chẳng hạn như sự quang hợp của lá cây chỉ được thể hiện thông qua sự tác động của nó với ánh sáng mặt trời hay tính tan của muối chỉ được bộc lộ khi có sự tác động với nước. .Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật; quy định sự tồn tại vận động và phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Nhưng thuộc tính của sự vật chỉ bộc lộ các mối quan hệ cụ thể với các sự vật khác. Bởi vậy sự phân chia thuộc tỉnh thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính tương đối. Trong mối liên hệ cụ thể này thuộc tính này là thuộc tính cơ bản thể hiện sự chất của sự vật trong mối liên hệ cụ thể khác sẽ có thêm thuộc. Ví dụ:Trong mối quan hệ với động vật thì các thuộc tính có khả năng chế tạo, sử dụng công cụ, có tư duy là thuộc tính cơ bản của con người còn các thuộc tính không là thuộc tính cơ bản. Xong trong quan hệ giữa con người với nhau thì những thuộc tính của con người như về nhận dạng về dấu vân tay lại trở thành thuộc tính cơ bản.

.Mỗi sự vật hiện tượng đều có quá trình tồn tại và phát triển qua nhiều giai đoạn trong mỗi giai đoạn ấy nó lại có chất riêng. Như vậy mỗi sự vật hiện tượng không phải chỉ có một chất mà rất có thể có nhiều chất. Ví dụ: những mức độ trưởng thành của cá nhân một con người từ ấu thơ -> mầm non -> nhi đồng -> thiếu niên -> thanh niên…mỗi giai đoạn đó là một chất. .Chất của sự vật không những được quy định bởi những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật trong hiện thực các sự vật bật được tạo thành bởi các yếu tố như nhau xong chất của chúng lại khác nhau. Ví dụ như kim cương và than chì đều có cùng thành phần hóa học do các nguyên tố cacbon tạo nên nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử cacbon là khác nhau vì thế chất của chúng cũng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng còn than chì mềm. -Chất thể hiện tính ổn định tương đối của sự vật, hiện tượng: khi nó chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác thì chất của nó vẫn chưa thay đổi. Chẳng hạn như, trạng thái của nước rắn, lỏng, khí( chất), sự thay đổi về lượng của nhiệt độ từ 40-50C chưa làm cho trạng thái lỏng của nước thay đổi. b, Lượng: Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó. * Biểu hiện của lượng Các yếu tố biểu hiện ở số lượng các thuộc tính, ở tổng số các bộ phận, ở đại lượng tốc độ và nhịp điệu vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Lượng còn biểu hiện ở kích thước dài hay ngắn, số lượng lớn hay nhỏ, tổng số ít hay nhiều, trình độ cao hay thấp, tốc độ vận động nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt... Ví dụ như đối với phân tử nước(H2O). Lượng là số nguyên tử tạo thành nó, tức hai nguyên tử hidro (H) và một nguyên tử oxi (O) hay Quốc gia Việt Nam có Dân số: >90 triệu người và Diện tích :331698km² * Đặc điểm của lượng -Lượng mang tính khách quan vì nó là một dạng biểu hiện của vật chất, chiếm một vị trí nhất định trong không gian và tồn tại trong thời gian nhất định. Trong sự vật hiện tượng có nhiều loại lượng khác nhau; có lượng là yếu tố quyết định bên trong, có lượng chỉ thể hiện yếu tố bên ngoài của sự vật, hiện tượng; sự vật hiện tượng càng phức tạp thì lượng của chúng cũng phức tạp theo.

- Lượng có thể được xác định bằng các đơn vị đo lường cụ thể hoặc có thể nhận thức bằng con đường trừu tượng và khái quát hóa.Trong thực tế lượng của sự vật thường được xác định bởi những đơn vị đo lượng cụ thể như vận tốc của ánh sáng là 300.000 km trong một giây hay một phân tử nước bao gồm hai nguyên tử hydrô liên kết với một nguyên tử oxy,… bên cạnh đó có những lượng chỉ có thể biểu thị dưới dạng trừu tượng và khái quát như trình độ nhận thức tri của một người ý thức trách nhiệm cao hay thấp của một công dân,... trong những trường hợp đó chúng ta chỉ có thể nhận thức được lượng của sự vật bằng con đường trừu tượng và khái quát hoá. - Lượng thường xuyên biến đổi: Có những lượng biểu thị yếu tố kết cấu

bên trong của sự vật (số lượng nguyên tử hợp thành nguyên tố hoá học, số lượng lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội) có những lượng vạch ra yếu tố quy định bên ngoài của sự vật (chiều dài, chiều rộng, chiều cao của sự vật). Bản thân lượng không nói lên sự vật đó là gì, các thông số về lượng không ổn định mà thường xuyên biến đổi cùng với sự vận động biến đổi của sự vật , đó là mặt không ổn định của sự vật. Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng hay một qua trình nào đó trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai phương diện đó điều tồn tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng của sự vật, hiện tượng chỉmang tính tương đối. Có những tính quy định trong mối quan hệ này là chất nhưng trong mối quan hệ khác lại là lượng. Chẳng hạn , số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định thuần túy về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật, hiện tượng. 2. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng * Sự thống nhất giữa chất và lượng Bất kỳ sự vật hay hiện tượng nào cũng là sự thống nhất giữa mặt chất và mặt lượng, chúng tác động qua lại lẫn nhau, chúng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau: tương ứng với một loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và ngược lại.Ví dụ như tương ứng với cấu tạo H - 0 - H (cấu tạo liên kết nguyên tử hyđrô và 1 nguyên tử ôxy) thì 1 phân tử nước (H20) được hình thành với tập hợp các tính chất cơ bản, khách quan, vốn có của nó là: không màu, không mùi, không vị, có thể hoà tan muối, axít,… “Chất” và “lượng” luôn thống nhất hữu cơ với nhau, không tách rời nhau, tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống nhất giữa chất và lượng ở trong một độ nhất định, khi sự vật đang tồn tại.Bất cứ sự thay đổi nào về lượng cũng tất yếu sẽ dẫn tới sự thay đổi nhất định về “chất” của sự vật, hiện tượng. * Sự thay đổi dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất:

Trong mối quan hệ giữa chất và lượng thì chất là mặt tương đối ổn định, còn lượng là mặt biến đổi hơn nên sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Quá trình thay đổi của lượng diễn ra theo xu hướng hoặc tăng hoặc giảm nhưng không lập tức dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng. Ở một giới hạn nhất định, lượng của sự vật thay đổi, nhưng chất của sự vật chưa thay đổi cơ bản. Chẳng hạn, khi ta nung một thỏi thép đặc biệt ở trong lò, nhiệt độ của lò nung có thể lên tới hàng trăm độ, thậm chí lên tới hàng nghìn độ, song thỏi thép vẫn ở trạng thái rắn chứ chưa chuyển sang trạng thái lỏng. Khi lượng của sự vật, hiện tượng được tích lũy vượt quá giới hạn nhất định, thì chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Không giới hạn đó gọi là độ. Độ chỉ tính quy định, mối liện hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng khác. Chỉ khi nào lượng thay đổi đến giới hạn nhất định( đến độ )mới dẫn đến sự thay đổi về chất như vậy sự thay đổi về lượng tạo điều kiện cho chất thay đổi và kết quả là sự vật hiện tượng cũ mất đi sự vật hiện tượng mới ra đời. Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định sẽ tất yếu dẫn đến những sự thay đổi về chất. Giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút là thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật. Sự vật tích lũy đủ về lượng tại điểm nút sẽ làm cho chất mới của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ mới và điểm nút mới của sự vật đó, quá trình này diễn ra liên tếp trong sự vật và vì vậy sự vật luôn phát triển chừng nào nó còn tồn tại. Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi gây ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên. Sự giới hạn về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện nhất định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển và là điểm khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên tục của sự vật hiện tượng. Trong thế giới luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn đến bước nhảy về chất, tạo ra một đường nút vô tận, thể hiện cách thức vận động và phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Để hiểu rõ hơn về cái khái niệm ta cùng xét một ví dụ: Xét “nước” nguyên chất, trong điều kiện atmotphe ở trạng thái thể lỏng (chất) được quy định bởi lượng nhiệt độ (lượng) từ 0°C đến 100°C (độ). Khi lượng nhiệt độ biến thiên nằm ngoài khoảng giới hạn 0°C hoặc 100°C đó (điểm nút) thì tất yếu xảy ra quá trình biến đổi trạng thái của nước từ trạng thái lỏng sang trạng thái rắn hoặc khí (bước nhảy).

Như vậy sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định. Chẳng hạn, thời gian để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá ở mỗi nước là khác nhau.Có những nước mất 150 năm, có những nước mất 60 năm nhưng cũng có những nước chỉ mất 15 năm. Tùy vào sự vật, hiện tượng; tùy vào mâu thuẫn vốn có của chúng và vào điều kiện , trong đó sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng mà có nhiều hình thức bước nhảy. *Các hình thức cơ bản của bước nhảy. Căn cứ vào thời gian thực hiện bước nhảy của bản thân sự vật có thể chia thành bước nhẩy đột biến và bước nhảy dần dần: -Bước nhảy đột biến: là bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật. Ví dụ như khối lượng Uranium 235(Ur 235) được tăng đến khối lượng tới hạn thì sẽ xảy ra vụ nổ nguyên tử trong chốc lát. -Bước nhảy dần dần là bước nhảy được thực hiện từ từ, từng bước bằng cách tích luỹ dần dần những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi. Ví dụ như ,Quá trình cách mạng đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lâu dài qua nhiều bước nhảy dần dần.Vì là một quá trình phức tạp, trong đó có cả sự tuần tự lẫn những bước nhảy diễn ra ở từng bộ phận của sự vật ấy. Căn cứ vào quy mô thực hiện bước nhảy của sự vật có bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ: -Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành sự vật. -Bước nhảy cục bộ: là bước nhảy làm thay đổi chất của từng mặt, những yếu tố riêng lẻ của sự vật. Ví dụ như trong hiện thực, các sự vật có thuộc tính đa dạng, phong phú nên muốn thực hiện bước nhảy toàn bộ phải thông qua những bước nhảy cục bộ. Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. *Chất mới ra đời tác động trở lại lượng của sự vật:

Sự thay đổi về chất tác động trở lại đối với sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổi luôn luôn trong mối quan hệ với chất, chịu sự tác động của chất. Song sự tác động của chất đối với lượng rõ nét nhất khi xảy ra bước nhảy về chất, chất mới thay thế chất cũ, nó quy định quy mô và tốc độ phát triển của lượng mới trong một độ mới. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ: chất mới sẽ tạo ra một lượng mới phù hợp với nó để có sự thống nhất mới giữa chất và lượng. Sự tác động ấy thể hiện: chất mới có thể làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn như, khi sinh viên vượt qua điểm nút là kỳ thi tốt nghiệp, tức là thực hiện bước nhảy, sinh viên sẽ được nhận bằng cử nhân. Trình độ văn hoá của sinh viên đã cao hơn trước và sẽ tạo điều kiện cho họ thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ tri thức, giúp họ tiến lên trình độ cao hơn. Cũng giống như vậy khi nước ở trạng thái lỏng sang trạng thái hơi thì vận tốc của các phân tử nước tăng hơn, thể tích của nước ở trạng thái hơi sẽ lớn hơn thể tích của nó ở trạng thái lỏng với cùng một khối lượng tính chất hoà tan một số chất tan của nó cũng sẽ khác đi, v v Như vậy, không chỉ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất mà những thay đổi về chất cũng đã dẫn đến những thay đổi về lượng. Từ những sự phân tích ở trên có thể rút ra kết luận: Bất kỳ sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi của lượng.Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển. 3. Ý nghĩa phương pháp luận Trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật hiện tượng. - Cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất của sự vật, đồng thời phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật. Ví dụ như khi nghiên cứu về các chất trong hoá vô cơ hay hữu cơ, người ta không chỉ nghiên cứu để xác định các tính chất hoá học cơ bản vốn có của nó mà còn phải nghiên cứu giải thích tính chất đó được tạo ra bởi số lượng các nguyên tố nào với cấu tạo liên kết nào. Nhờ đó có thể tạo ra sự biến đổi của các chất đó trên cơ sở làm thay đổi lượng tương ứng. - Cần khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh(không chịu tích lũy về mặt lượng mà lại muốn biến đổi về chất) và tư tưởng bảo thủ hữu khuynh(lượng đã tích lũy đến điểm nút nhưng không thực hiện bước nhảy) trong công tác thực

tiễn. Ví dụ như một người thực hiện kinh doanh nhưng chưa tích lũy đủ kiến thức về lượng thì khả năng thất bại sẽ rất cao - Cần phải vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể. - Quy luật này còn yêu cầu phải nhận thức được sự thay đổi về chất còn phụ thuộc vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật hiện tượng do đó phải biết chọn phương pháp phù hợp với tác động và phương thức liên kết đó trên cơ sở hiểu rõ bản chất quy luật của chúng II. Liên hệ thực tiễn Vận dụng quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại và...


Similar Free PDFs