Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay PDF

Title Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay
Author Nguyễn Thùy Linh
Course Kinh tế chính trị
Institution Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Pages 14
File Size 298.7 KB
File Type PDF
Total Downloads 862
Total Views 1,055

Summary

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾBÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC – LE-NINGiảng viên : Hoàng Ngọc Quang Sinh viên : Nguyễn Thùy Linh Mã sinh viên : 20050297 Lớp học phần : PEC1008 – 22Hà Nội, 07/MỤC LỤC Các điều kiện cần tạo lập để chuyển đổi từ nền sản xuất – xã hội lạc PH...


Description

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

BÀI TẬP LỚN HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MAC – LE-NIN

Giảng viên Sinh viên Mã sinh viên Lớp học phần

: Hoàng Ngọc Quang : Nguyễn Thùy Linh : 20050297 : PEC1008 – 22

Hà Nội, 07/2021

M=C L=C PHẦN I..

3

1. Một số khái niệm

3

2. Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường 2.1. Tác động tích cực

4

4

2.2. Tác động tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh

5

3. Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 3.1. Tác động tích cực

7

3.2. Tác động tiêu cực

9

6

3.3. Chính sách và pháp luật cạnh tranh 9

PHẦN II. 11 1. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì?

11

2. Các điều kiện cần tạo lập để chuyển đổi từ nền sản xuất – xã hội lạc hậu sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam 11

Tài liệu tham khảo

14

2

PHẦN I. Phân tích tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường? Các tác động này đang biểu hiện như thế nào trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay? Minh hoạ bằng ví dụ cụ thể? 1. Một số khái niệm Nền kinh tế thị trường 1 là nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường. Đó là nền kinh tế hàng hóa phát triển cao, ở đó mọi quan hệ sản xuất và trao đổi đều được thông qua thị trường, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật thị trường. Đây là một nền kinh tế được hình thành khách quan trong lịch sử. Cạnh tranh 2 về cơ bản là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh tế với nhau nhằm có được những ưu thế về sản xuất cũng như tiêu thụ và từ đó thu được lợi ích tối đa. Đây là một trong các quy luật của nền kinh tế thị trường, điều tiết một cách khách quan mối quan hệ ganh đua kinh tế giữa các chủ thể trong sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nguyên nhân dẫn đến cạnh tranh: thứ nhất là do sự tồn tại của nhiều chủ sở hữu độc lập, tư do sản xuất kinh doanh; thứ hai là do người sản xuất, kinh doanh có những điều kiện sản xuất và lợi ích khác nhau. 2. Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Cạnh tranh là một quy luật kinh tế tồn tại khách quan, vừa có mặt tích cực vừa có mặt hạn chế. Nhưng mặt tích cực là cơ bản, mang tính trội khi cạnh tranh lành mạnh. Còn những mặt tiêu cực, những hạn chế của cạnh tranh rất dễ dàng có thể nhận ra đến từ cạnh tranh không lành mạnh. 11 2 Giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (dành cho bậc đại học không chuyên lý

luận chính trị) do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2019. 2

3

2.1. Các tác động tích cực Cạnh tranh giúp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất 3: Trong một thị trường luôn có rất nhiều doanh nghiệp và các ngành kinh doanh thì việc một doanh nghiệp có nhiều đối thủ là không tránh khỏi. Khi đó, để có thể cạnh tranh thì chất lượng sản phẩm phải cao, đáp ứng nhu cầu khách hàng, nhưng chi phí sản xuất phải hợp lí để có thể vẫn sinh ra lợi nhuận, hay nói cách khác, lực lượng sản xuất phải mang lại “lợi thế cạnh tranh”. Đây là mặt thứ nhất của cạnh tranh, khi cả nền kinh tế phát triển, mọi đối thủ kinh doanh đều có “lợi thế cạnh tranh”, thậm chí còn có lợi thế hơn doanh nghiệp thì phải nâng cấp doanh nghiệp mình, nâng cao năng lực cạnh tranh: nâng cao tay nghề người lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra, vận dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật… Cứ như vậy, khi các doanh nghiệp cạnh tranh, chất lượng của lực lượng sản xuất nói chung sẽ ngày một cải thiện và phát triển. Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực 4: trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế không chỉ phải cạnh tranh với nhau về sản phẩm đầu ra mà còn có các nguồn lực. Nguồn lực được phân bổ tối ưu khi giá cả trả cho hàng hóa và dịch vụ trên tất cả các thị trường phản ánh chính xác chi phí kinh tế thấp nhất để cung ứng chúng. Các nhà sản xuất sẽ phải điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực sao cho phân bổ nguồn lực là tối ưu. Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội 5: muốn có được lợi thế cạnh tranh, người sản xuất phải làm ra sản phẩm có chất lượng hơn, đẹp hơn, có chi phí sản xuất rẻ hơn… để đáp ứng thị hiếu và nhu cầu người tiêu dùng. Khi các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau, hoặc chất lượng của hàng hóa sẽ tăng lên hoặc giá thành của hàng hóa sẽ giảm đi, hoặc cả hai điều đó sẽ xảy ra mà nhu cầu của khách 34

5

Giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (dành cho bậc đại học không chuyên lý

luận chính trị) do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2019. 4 5

4

hàng vẫn được thỏa mãn. Vậy là, càng nhiều doanh nghiệp cạnh tranh với nhau thì sản phẩm hay dịch vụ cung cấp cho khách hàng sẽ càng có chất lượng cao hơn, cạnh tranh đem đến cho khách hàng giá trị tối ưu đối với đồng tiền mồ hôi công sức họ làm ra. Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường 6: cạnh tranh là một quy luật của nền kinh tế thị trường, ở đó, mọi hành vi của mọi chủ thể kinh tế đều hoạt động trong môi trường cạnh tranh. Kinh tế thị trường càng phát triển thì cạnh tranh càng quyết liệt, thường xuyên hơn. Cạnh tranh lại là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, góp phần vào sự phát triển kinh tế. Vì cạnh tranh không chỉ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, giúp điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực mà còn thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội nhằm tối ưu hóa lợi nhuận của mỗi chủ thể kinh tế. Có thể thấy, cạnh tranh và nền kinh tế thị trường luôn tác động qua lại lẫn nhau và thúc đẩy nhau phát triển. 2.2. Các tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực đến từ cạnh tranh lành mạnh thì những khuyết tật, tác động của cạnh tranh không lành mạnh: chạy theo lợi nhuận đơn thuần, tìm mọi cách để kiếm lợi nhuận, dùng các thủ đoạn vi phạm pháp luật hay bất chấp pháp luật, vi phạm những đạo đức kinh doanh, coi nhẹ vấn đề y tế, môi trường, xã hội… đang là những thực trạng nhức nhối của toàn xã hội. Thứ nhất, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh 7: khi chủ thể thực hiện mọi cách để cạnh tranh sẽ rất dễ sử dụng các biện pháp cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí là không lành mạnh, các thủ đoạn xấu để tăng lợi nhuận: buôn lậu, buôn bán hàng giả, hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ … Đây là những hành vi xấu, làm môi trường kinh doanh sẽ ngày càng đi xuống về mặt chất lượng và làm giá trị đạo đức bị xói mòn.

6 76 7 Giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (dành cho bậc đại học không chuyên lý

luận chính trị) do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2019. 5

Thứ hai, cạnh tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội 8: chiếm giữ nguồn lực để giành ưu thế cạnh tranh mà không phát huy được vai trò của nguồn lực trong sản xuất kinh doanh cũng là một hình thức của cạnh tranh không lành mạnh. Khi đó, nguồn lực không được phân bổ hợp lí: nơi cần thì không đủ, nơi có thì không thể phát huy tối ưu vai trò của nguồn lực mình có. Không chỉ thế, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh còn ảnh hưởng đến môi trường sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, tàn phá môi trường ngày một nghiêm trọng. Về lâu về dài, đây sẽ không chỉ là vấn đề lãng phí nguồn lực xã hội mà là hủy hoại môi trường sống, nền kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng. Thứ ba, cạnh tranh không lành mạnh gây tổn hại phúc lợi xã hội 9: khi cạnh tranh không lành mạnh ngày một mạnh mẽ, phân hóa giàu nghèo, lãng phí nguồn lực xã hội và các vấn đề xã hội khác sẽ ngày một nhiều, nghiêm trọng. Việc gây tổn hại đến phúc lợi xã hội là không tránh khỏi. 3. Tác động của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Từ năm 1986 – 2006, nền kinh tế Việt Nam chuyển mình từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí, điều tiết của nhà nước nhằm hạn chế những khuyết tật vốn có của nền kinh tế thị trường với mục tiêu dài hạn là xây dựng chủ nghĩa xã hội, có thể gọi là nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội. Về bản chất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn là nền kinh tế thị trường, vì vậy, quy luật cạnh tranh – một quy luật của nền kinh tế này rất có ảnh hưởng đến nền kinh tế của Việt Nam. Ở đây ta cũng xét tác động của cạnh tranh đến nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trên hai mặt: tích cực và tiêu cực cùng chính sách và pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam. 3.1. Tác động tích cực

88

9

Giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (dành cho bậc đại học không chuyên lý luận chính trị) do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2019. 9

6

Cạnh tranh giúp thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất: khoa học và công nghệ là một trong những yếu tố đóng vai trò quan trọng trong phát triển lực lượng sản xuất Việt Nam. Những tựu khoa học và công nghệ đã góp phần đáng kể trong việc phát triển tư liệu sản xuất, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Để đạt được bước tiến đó, không thể không kể đến xu thế toàn cầu hóa, sự hội nhập quốc tế, và quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Việt Nam đã xây dựng được nhiều nhà máy, xí nghiệp có dây chuyền, máy móc hiện đại; trong lĩnh vực nông nghiệp, sử dụng máy móc để tăng năng suất lao động, thay thế dần sức lao động của con người… Cải tiến kĩ thuật, đổi mới công nghệ, hợp lí hóa sản xuất, tăng năng suất lao động để hạ thấp giá trị các biệt của hàng hóa, làm cho giá trị hàng hóa của doanh nghiệp sản xuất thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa đó. Không chỉ vậy, sự tăng lên không ngừng của đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của nền sản xuất hiện đại trong việc ứng dụng những thành tựu của khoa học, công nghệ vào việc cải tạo nền sản xuất theo hướng hiện đại. Người nông dân Việt giờ đây đã sử dụng máy cày thay trâu, dùng máy tuốt lúa liên hợp để thay cho cả một quá trình lao động vất vả, dùng nhà kính với những phương pháp và hạt giống mới để tăng năng suất cây trồng, kết quả là quý IV năm 2020, ngành nông nghiệp tăng 2,55% đóng góp 0,29 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế trong tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp 10. Cạnh tranh là cơ chế điều chỉnh linh hoạt việc phân bổ nguồn lực: ở Việt Nam, việc phân bổ nguồn lực không chỉ do cơ chế thị trường điều tiết mà còn do định hướng của Nhà nước và những chính sách nhằm ổn định, khắc phục những hạn chế của thị trường. Nhờ vào cạnh tranh, những khuyết tật của nền kinh tế thị trường đã được bộc lộ rõ, giúp cho Nhà nước có những định hướng đúng đắn cho nền kinh tế nước nhà. Nghị quyết đại hội Đảng XII đã khẳng định: “Thị trường đóng vai trò chủ

10 Theo tổng cục thống kê: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2020

7

yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển… Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế…” 11 Cạnh tranh thúc đẩy năng lực thỏa mãn nhu cầu xã hội: cạnh tranh khiến các nhãn hàng Việt Nam tích cực thay đổi phương thức marketing, thậm chí là chất lượng, mẫu mã sản phẩm để phù hợp thị hiếu, nhu cầu khách hàng mà vẫn giữ được giá trị riêng của mình. Thật vậy, trong đại dịch Covid-19, ta thấy rõ: các trang thương mại điện tử đang dần chiếm ưu thế, hầu như các thương hiệu đều có kênh riêng và có những chính sách giảm giá hay ưu đãi dành cho khách hàng. Đồ ăn, đồ gia dụng, mỹ phẩm,… chỉ với vài thao tác là khách hàng có thể được giao tận nhà. Không chỉ thế, càng ngày việc tham khảo trải nghiệm của khách hàng càng được chú trọng, thái độ phục vụ của nhân viên cũng trở thành một tiêu chí cạnh tranh của các doanh nghiệp. Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế thị trường: sau hơn 30 năm chuyển mình sang nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước nhảy vọt, là một trong những nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh nhất thế giới, có những mặt hàng có thể cạnh tranh và xuất khẩu sang nước ngoài: hàng dệt may xuất khẩu sang Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc; thủy sản xuất khẩu sang Mỹ, EU, Nhật Bản; đặc biệt là cà phê Việt Nam đã được đông đảo bạn bè quốc tế mến mộ và tin dùng. Cán cân thương mại trong gia đoạn 2011 – 2015 đã khởi sắc khi nhập siêu giảm dần, năm 2012 đánh dấu năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu kể từ năm 1992.

3.2. Tác động tiêu cực Theo Cục Cạnh ttranh và Bảo vệ người tiêu dùng, tính đến hết năm 2018 đã có khoảng 400 hồ sơ khiếu nại về các vụ việc cạnh tranh không lành mạnh và con số 11 Tạp chí cộng sản: “Hoàn thiện thể chế về thu hút, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực

phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước” 8

này đang có chiều hướng gia tăng. Những hành vi ấy vô cùng ảnh hưởng đến niềm tin của khách hàng, cũng như an ninh thương mại, lãng phí nguồn lực xã rồi gây ra tổn hại phúc lợi xã hội. Ta có thể lấy một vài ví dụ về hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã những năm gần đây ở Việt Nam: + Cạnh

tranh không lành mạnh gây tổn hại môi trường kinh doanh: năm 2020,

lực lượng quản lí thị trưởng đã phát hiện, xử lí trên 66.000 vi phạm buôn lậu, hàng giả, hàng cấm, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ và con số này sẽ còn tăng thêm và diễn biến phức tạp vào năm 2021 + Cạnh

tranh không lành mạnh gây lãng phí nguồn lực xã hội: Formosa Hà Tĩnh

đã bị phạt bồi thường thiệt hại 500 triệu USD và được gọi là công ty gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng nhất của Việt Nam trong nhiều năm qua khi làm ô nhiễm môi trường biển khiến cá chết hàng loạt tại bốn tỉnh khu vực miền Trung từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên – Huế. Đây chỉ là một trong rất nhiều công ty đã và đang phá hoại môi trường để kiếm chác lợi nhuận, nếu tình trạng này cứ mãi tiếp diễn, liệu môi trường sống của Việt Nam sẽ đi về đâu? + Cạnh

tranh không lành mạnh gây tổn hại phúc lợi xã hội: trong giai đoạn 2016

- 2019, thu nhập bình quân đầu người của nhóm có thu nhập thấp nhất là 791.000 đồng, tăng bình quân 5,7% trong khi nhóm cao nhất là 7.800.000 đồng tăng 6,8%, điều này cho thấy sự phân hóa giàu nghèo ngày một tăng, phúc lợi xã hội sẽ phải chi trả nhiều hơn cho người nghèo, người thất nghiệp hay cả những hoạt động nhằm bảo vệ môi trường. 3.3. Chính sách và pháp luật cạnh tranh Để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, không thể thiếu vai trò của nhà nước trong việc điều tiết mà vẫn luôn phải tôn trọng các quy luật chung vốn đã tồn tại của nền kinh tế thị trường song song với không làm ảnh hưởng tới quyền tự do

9

kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Để làm được điều đó, nhà nước sử dụng chính sách cạnh tranh (competition policy) 12, bao gồm: + Chính sách thương mại quốc tế + Chính sách công nghiệp + Chính sách cổ phần hóa + Chính sách lao động + Cải cách điều tiết kinh tế ngành + Chính sách về quyền sở hữu trí tuệ + Luật cạnh tranh: có thể nói đây là bộ phận giữ vai trò quan trọng nhất trong chính sách cạnh tranh, chủ yếu điều chỉnh kiểm soát 4 loại hành vi gây hạn chế cạnh tranh: sáp nhập, mua lại doanh nghiệp gây hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vị trí thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền; thoả thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp 13.

12 Luật Minh Khuê: Chính sách nhà nước cạnh tranh 13 Luật Minh Khuê: Chính sách nhà nước cạnh tranh

10

PHẦN II. Phân tích các điều kiện cần tạo lập để chuyển đổi từ nền sản xuất – xã hội lạc hậu sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam? 1. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là gì? Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi nền sản xuất xã hội từ dựa trên lao động thủ công là chính sang nền sản xuất xã hội dựa chủ yếu trên lao động bằng máy móc nhằm tạo ra năng suất lao động cao 14. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao 15. 2. Các điều kiện cần tạo lập để chuyển đổi từ nền sản xuất – xã hội lạc hậu sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam Việt Nam chúng ta vốn là một nước thuần nông với nền văn minh lúa nước lâu đời với nền kinh tế sản xuất lạc hậu, công cụ thô sơ, năng suất lao động thấp, đứng trước các cuộc cách mạng công nghiệp vĩ đại của thế giới và xu hướng toàn cầu hóa, ta không thể mãi là người nông dân đứng trong lũy tre làng. Từ tháng 6 năm 1991, sau nhiều lần sửa đổi và bổ sung, “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” đã tuyên bố rằng nhiệm vụ trung tâm của xây dựng cơ sở 1414 15 Giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (dành cho bậc đại học không chuyên lý

luận chính trị) do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2019. 15

11

vật chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” 16. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là nhân tố quyết định sự thắng lợi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn 17. Muốn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam cần tạo lập những điều kiện để có thể chuyển đổi từ nền sản xuất – xã hội lạc hậu sang nền sản xuất – xã hội tiến bộ, đó là về: Tư duy phát triển: để có thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại đại hóa một cách hoàn chỉnh thì đầu tiên ta phải có kiến thức và tư duy đúng đắn về vấn đề này. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta vì nhận thức không đúng về công nghiệp hóa phải gắn với hiện đại hóa mà nhập khẩu công nghệ lạc hậu của những nước phát triển để rồi tự biến nước mình thành một “bãi rác công nghệ”. Có tư duy đúng thì ta phát triển nó thành tư duy mới: tư duy về công nghiệp hóa trong nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế. Thể chế và nguồn lực: khi đã có tư duy phát triển, Việt Nam cần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phát huy vai trò của khoa học – công nghê và nguồn nhân lực chất lượng cao. Cần có khuôn khổ pháp luật cho những lĩnh vực kinh tế mới, phương thức kinh doanh mới, quan hệ kinh tế mới… để bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ môi trường cũng như chính sách khuyến khích sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Lực lượng lao động Việt Nam cũng cần học tập, sáng tạo nhiều hơn và được đầu tư nhiều hơn để đào tạo một nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu công nghiệp – hiện đại. Môi trường quốc tế thuận lợi: trong thời kì hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay và với một quốc gia hướng xuất khẩu như Việt Nam thì đây là một điều kiện không thể bỏ qua. Muốn có một môi trường quốc tế thuận lợi, hòa bình, phục vụ phát triển kinh tế bền vững thì Việt Nam phải có những chính sách ngoại giao vừa mềm mỏng vừa cứng rắn. Nhìn lại quá trình 30 năm thực hiện nhiệm vụ công nghiệp 16 Theo Wikipedia: Kinh tế Việt Nam 17 Giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (dành cho bậc đại học không chuyên lý luận

chính trị) do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2019 12

hóa, hiện đại hóa của nước nhà, ta càng khẳng định những đóng góp to lớn của ngoại giao kinh tế, văn hóa đối với sự phát triển của đất nước cũng như tầm quan trọng của môi trường quốc tế. Trình độ văn minh của xã hội và ý thức xây dựng xã hội văn minh của người dân: Văn minh là tiêu chí quan trọng của tiến bộ xã hội, cũng là một đặc trưng của xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa 18. Nhưng để tạo nên một xã hội có trình độ văn hóa cao và văn minh thì không chỉ từ những chính sách hay pháp luật mà còn xuất phát từ ý thức xây dựng xã hội văn minh của mỗi người dân. Mỗi công dân cần có ý thức tự giác học hỏi nâng cao trình độ - vì chính bản thân mình cũng như vì một xã hội văn minh.

18 Tạp chí cộng sản: Giá trị văn minh – một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

13

Tài liệu tham khảo 1. Các khái niệm và kiến thức cơ bản đều được lấy từ giáo trình học phần Kinh tế chính trị Mác – Lê-nin (dành cho bậc đại học không chuyên lý luận chính trị) do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất bản năm 2019. 2. Luật Minh Khuê: Vai trò, ý...


Similar Free PDFs