Tiểu luận Triết học Mác Lenin Đại học Ngoại Thương PDF

Title Tiểu luận Triết học Mác Lenin Đại học Ngoại Thương
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 20
File Size 266.5 KB
File Type PDF
Total Downloads 68
Total Views 686

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ-------***------TIỂU LUẬN TRIẾT HỌCQUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI VỚI TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG ỞVIỆT NAM HIỆN NAYSinh viên thực hiện: Nguyễn Thanh Thảo Mã sinh viên: 2114810049 Lớp Anh 3, Kiểm toán Kế toán, Khóa 60 Lớp tín chỉ: TRI114. Giảng viên hướ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ -------***------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

QUAN HỆ GIỮA XÃ HỘI VỚI TỰ NHIÊN VÀ VẤN ĐỀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thanh Thảo Mã sinh viên: 2114810049 Lớp Anh 3, Kiểm toán Kế toán, Khóa 60 Lớp tín chỉ: TRI114.5 Giảng viên hướng dẫn: ThS Trần Huy Quang

Hải Phòng – 12/2021 1

MỤC LỤC MỞ ĐẦU NỘI DUNG I.Cơ sở lý luận 1.Khái niệm tự nhiên và xã hội ……………………………………………………...4 2.Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên với xã hội ………………………...............4 2.1.Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên……………………………………………...5 2.2.Tự nhiên – nền tảng của xã hội…………………………………………………......6 2.3.Tác động của xã hội đến môi trường tự nhiên………………………………………6 2.4.Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên…………………..8 2.5.Tự nhiên – Con người – Xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất……………...9 II.Vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay 1.Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam……..………..10 1.1.Tài nguyên đất Việt Nam………………………………………………………….11 1.2.Tài nguyên nước Việt Nam………………………………………………………..11 1.3.Tài nguyên khoáng sản Việt Nam…………………………………………………12 1.4.Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam…………………………………………12 1.5.Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học……………………………………………..12 2.Vấn đề môi trường ở Việt Nam……………………………………………………13 3.Các giải pháp đề ra.………………………………………………………………..16 KẾT LUẬN

2

TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU *Lý do lựa chọn tiểu luận Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội luôn là mối quan tâm nhiều nhất, có ảnh hưởng to lớn và sâu sắc đối con người. Tự nhiên và xã hội là hai khái niệm lớn nhất và gần gũi nhất với con người. Con người đồng thời tồn tại và là sản phẩm của tự nhiên, xã hội do đó việc con người quan tâm đến phạm trù này là lẽ đương nhiên. Kể từ khi ra đời quan điểm về mối quan hệ này đã thay đổi khá nhiều. Trong một thời gian rất dài hai khái niệm này đã được đem đối lập nhau, theo quan điểm đó tự nhiên và xã hội hoàn toàn tách rời nhau, không liên quan đến nhau. Quan điểm này ngày nay vẫn còn tồn tại trong quan điểm nhiều người đã dẫn đến nhiều hành vi hủy hoại thiên nhiên mà họ không biết rằng đang phá hủy tương lai chính con em mình. Quan niệm này quả là một sai lầm lớn, thưc tế và lí luận khoa học đều chứng tỏ rằng tự nhiên và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó cùng nằm trong một tổng thể bao gôm tự nhiên, con người và xã hội. Con người và xã hội đã dựa trên nền tảng tự nhiên mà tồn tại và phát triển, nhưng chính trong quá trình tồn tại và phát triển ấy thì nền tảng tự nhiên lại bị phá hủy, đăc biệt là trong thời đại công nghệ phát triển hiện dại như ngày nay trên các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, khiến cho môi trường bị tàn phá ngày càng nghiêm trọng. Các nhà bác học nhìn xa trông rộng như Z.Lamark, 1820 đã viết “Mục đích của con người dường như là tiêu diệt nòi giống mình, trước hết là làm cho Trái Đất trở nên không thích hợp với sự cư trú”. Nếu chúng ta không muốn tiên đoán oan nghiệt kia trở thành sự thật thì đã đến lúc phải hành động trước khi quá muộn, đã đến lúc con người cần xac định rõ ràng mối quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và quan tâm đến các vấn đề bảo vệ môi trường. Nắm bắt được sự quan trọng và câp thiết của vấn đề bảo vệ môi trường của Việt Nam, cũng như hiểu được vốn tri thức phong phú và giàu tính thực tiễn của đề tài, nên

3

em đã quyết định chọn đề tài “Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay”. *Mục đích của tiểu luận: Tiêu luận này được viết nhằm nêu lại quan điểm của Triết học Mác-Lênin về mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đồng thời trên cơ sở “Quan hệ giữa xã hội với tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay”. Bên cạnh đó, hi vọng mọi người có thể có nhận thức xác đáng hơn về vấn đề bảo vệ môi trường nhằm nâng cao ý thức mỗi cá nhân, tổ chức; góp một phần không nhỏ vào công cuộc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. *Để đạt được mục đích trên tiểu luận đề cập và giải quyế các vấn đề sau: - Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên, sự tác động qua lại giữa hai yếu tố trên. - Thực trạng môi trường nước ta hiện nay và các phướng hướng khắc phục.

NỘI DUNG I.Cơ sở lý luận Mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên từ lâu đã là mối quan tâm lớn của con người, cho đến nay quan niệm về vấn đề này đã trở nên hoàn thiện hơn bao giờ hết. 1.Khái niệm tự nhiên và xã hội - Tự nhiên theo nghĩa rộng thì tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng vô tận. Theo nghĩa này thì xã hội loài người cũng là một bộ phận của tự nhiên.(Chúng ta sẽ xem xét tự nhiên theo nghĩa này) - Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình thái này lấy mối quan hệ của con người và sự tương tác lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Theo Mác “Xã hội không phải gồm các cá nhân người. Xã hội biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân với nhau” 2.Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội

4

Thế giới tự nhiên và xã hội thực sự có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: 2.1.Xã hội – bộ phận đặc thù của tự nhiên Theo định nghĩa tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan vậy con người và xã hội loài người cũng là một bộ phận của thế giới vật chất ấy - con người và xã hội cũng là bộ phận của tự nhiên. Nguồn gốc của con người là tự nhiên. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiên từ động vật. Con người sống trong giới tự nhiên như mọi sinh vật khác bởi con người là một sinh vật của tự nhiên. Ngay cả bộ óc con người, cái mà con người vẫn tự hào cũng chính là sản phẩm cao nhất của vật chất. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của con người. Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật sinh học mà còn nhờ lao động. Lao động là một quá trình được tiến hành giữa con người với tự nhiên, trong quá trình này con người khai thác và cải tiến giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Trong lao động cấu tạo cơ thể người dần hoàn thiện và do nhu cầu trao đổi thông tin ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai kích thích chủ yếu chuyển biến bộ não động vật thành bộ não người, tâm lý động vật thành tâm lý người. Sự hình thành con người đi kèm với sự hình thành các quan hệ giữa người vứi người, cộng đồng người dần thay đổi từ mang tính bầy đàn sang một cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi đó là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội. Vậy xã hội là gì? Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình thái này lấy mối quan hệ của con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân với nhau, "là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người". Như vậy xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên. Song bộ phận này có tính đặc thù thể hiện ở chỗ: phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô thức và mù quáng tác động lẫn nhau; còn

5

trong xã hội, nhân tố hoạt động là của con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên. 2.2.Tự nhiên – nền tảng của xã hội Xã hội và tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương tác với nhau. Đây là một mối quan hệ biện chứng hai chiều, trước hết ta xét chiều thứ nhất là những tác động của tự nhiên lên xã hội loài người. Tự nhiên vô cùng quan trọng với xã hội. Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Tự nhiên là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vì xã hội được hình thành trong sự tiến hóa của thế giới vật chất. Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chính tự nhiên đã cung cấp những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho các hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mác, con người không thể sáng tạo ra được cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài. Đó là vật liệu trong đó lao động của con người được thực hiện, trong đó lao động của con người tác động, từ đó và nhờ đó, lao động của con người sản xuất ra sản phẩm. Tóm lại tự nhiên đã xung cấp mọi thứ cho sự tồn tại của xã hội, mọi thứ mà lao động của con người cần. Mà chính lao động đã tạo ra con người và xã hội do đó vai trò của tự nhiên với xã hội là vô cùng to lớn. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội; có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội. 2.3.Tác động của xã hội đến tự nhiên Tự nhiên tác động đế xã hội nhiều như thế nào thĩ xã hội cũng tác động lại vào tự nhiên như thế.

6

Trước hết phải khẳng định lại rằng xã hội là một bộ phận của tự nhiên như vậy mỗi thay đổi của xã hội cũng có nghĩa là tự nhiên thay đổi. Bên cạnh đó xã hội còn tương tác với phần còn lại của tự nhiên một cách mạnh mẽ. Sự tương tác này thông qua các hoạt động thực tiễn của con người trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của con người với động vật. Song lao động cũng là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên. Bởi "lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm soát sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên". Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện ở chỗ: tự nhiên cung cấp cho con người điều kiện vật chất để con người sống và tiến hành hoạt động sản xuất. Cũng chính trong quá trình sử dụng những nguồn vật chất này con người đã làm biến đổi nó và các điều kiện môi trường xung quanh tức là làm biến đổi tự nhiên một cách mạnh mẽ. Hoạt động sống và lao động sản xuất của con người trong xã hội là vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự nhiên cũng vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự nhiên cũng vô cùng phong phú như khai thác khoáng sản, đánh bắt cá hay kể cả đốt rừng, đẩy trả rác thải ra tự nhiên... Thực tế xã hội luôn tác động tự nhiên. Giờ đây với sức mạnh của khoa học công nghệ, một lực lượng dân số khổng lồ, sự tác động này trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vấn đề hiện nay là trong quá trình tác động nàycon người cần kiểm tra, điều tiết việc sử dụng khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên, nếu không thì khủng hoảng sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên - xã hội sẽ bị đe dọa. Ấy vậy mà hiện nay con người lại đang đi ngược lại với những điều đúng đắn: Con người chính là sinh vật có khả năng làm biến đổi tự nhiên nhiều nhất - Chính vì vậy họ đang là sinh vật tàn phá thiên nhiên khủng khiếp nhất. Tóm lại trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên xã hội có vai trò ngày càng quan trọng. Để giữ gìn môi trường tồn tại và phát triển của mình con người cần nắm chắc

7

các quy luật tự nhiên, kiểm tra điều tiết sử dụng hợp lí, bảo quản khai thác có hiệu quả đảm bảo khả năng tái tạo các nguồn vật chất của tự nhiên, đảm bảo cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội. 2.4.Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội trong đó quan trọng nhất là trình độ phát triển của xã hội và sự độ nhận thức, vận dụng quy luật tự nhiên, xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người. Mối quan hệ tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội: Thông qua các hoạt động của con người lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội đã trở nên gắn bó và quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định này phụ thuộc vào trình độ phát triển của xã hội mà tiêu chí để đánh giá là phương thức sản xuất. Sự ra đời của những phương thức sản xuất mới quyết định sự biến chuyển về chất của xã hội loài người. Chính phương thức sản xuất quy định tính chất của mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương thức sản xuất khác nhau sẽ có những công cụ lao động khác nhau để khai thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Khi công cụ thay đổi, mục đích sản xuất của mỗi chế độ sản xuất thay đổi thì tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi theo. Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường sống mà còn là đối tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng hoảng môi trường đã xảy ra ở nhiều nơi và đang đe dọa sự sống của nhân loại. Để tồn tại và phát triển con người phải chung sống hòa bình với thiên nhiên, thay đổi cách đối xử với tự nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa - nguồn gốc sâu xa của việc phá hoại tự nhiên nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất cả mọi người. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn:

8

Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể hiện thông qua hoạt động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn. Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con người đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái có sẵn trong giới tự nhiên thì sự nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá vỡ cân bằng hệ thống tự nhiên - xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ phải trả giá và chịu diệt vong. Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn. Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển, nhận thức đã được nang lên nhiều vấn đề còn lại là phải hành động cho đúng. Để tuân theo các quy luật tự nhiên thì việc xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa là con đường duy nhất. 2.5.Tự nhiên – Con người – Xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Hơn thế tự nhiên - con người - xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất. Theo nguyên lí về tính thống nhất vật chất của thế giới thì thế giới tuy vô cùng phức tạp, đa dạng và được cấu thành từ nhiều yếu tố khác nhau song suy đến cùng có ba yếu tố cơ bản là tự nhiên, con người và xã hội loài người. Ba yếu tố này thống nhất với nhau trong một hệ thống tự nhiên - con người - xã hội bởi chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, đặc tính, mối quan hệ khác nhau của vật chát đang vận động. Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những qui luật, tất cả các quá trình trong tự nhiên, con người và xã hội đều chịu sự chi phối của những qui luật phổ biến nhất định. Sự hoạt động của các qui luật đó đã nồi liền các yếu tố của thế giới thành một

9

chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn và phát triển không ngừng trong không gian và theo thời gian. Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội: Con người là sản phẩm của tự nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con người vốn tồn tại trong tự nhiên nhưng sau khi tạo ra xã hội thì lại không thể tách rời xã hội. Để trở thành một con người đích thực con người cần được sống trong môi trường xã hội, trong mối quan hệ qua lại giữa người với người với người. Con người mang trong mình bản tính tự nhiên và bản chất xã hội. Chính vì thế ta có thể nói rằng con người còn là hiện thân của sự thống nhất giữa xã hội và tự nhiên. II.Vấn đề bảo vệ môi trường của Việt Nam hiện nay Nằm trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội, môi trường và sự ảnh hưởng của nó đến sự tồn tại và phát triển của xã hội có lẽ là điều quen thuộc nhất và nó thường xuyên đucợ nhắc đến quanh ta. 1.Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam Môi trường là gì? Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống. Khái niệm này bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở đây chúng ta sẽ chỉ chủ yếu xét đến môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau như môi trường sinh thái, môi trường sinh quyển. Môi trường sinh thái là điều kiện thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Như vậy trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thì môi trường sinh thái đại diện cho bộ phận còn lại của tự nhiên bên cạnh bộ phận đặc thù của tự nhiên là xã hội. Vai trò của môi trường sinh thái đối với xã hội trong quá trình lịch sử ở những giai đoạn khác nhau cũng được thể hiện một cách khác nhau.

10

Khi xã hội còn ở trình độ mông muội - khi con người chủ yếu chỉ biết săn bắt hái lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người hoàn toàn bị giới tự nhiên chi phối, thống trị. Cuộc sống xã hội hoàn toàn phụ thuộc môi trường tự nhiên. Khi con người văn minh hơn - nhất là khi khoa học kĩ thuật phát triển thì con người đã từng bước chế ngự được tự nhiên. Con người đã từng bước chế ngự , khai thác tự nhiên phục vụ cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành nghề ra đời từ những điều kiện tự nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, đồng thời có những ngành ít phụ thuộc tự nhiên hơn cũng ra đời như điện tử, phần mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây). Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ thuộc môi trường tự nhiên rất nhiều, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội. Qua phần trên chúng ta thấy rõ ràng cần phải bảo vệ môi trường, gìn giữ sự cân bằng của hệ thống tự nhiên-xã hội nhằm đảm bảo sự tồn tại phát triển lâu dài và ổn định cho xã hội loài người. Giờ chúng ta xem xét đến vấn dề trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. 1.1.Tài nguyên đất Việt Nam Quỹ đất của Việt Nam có tổng diện tích khoảng 33,059triệu ha, bình quân dất tự nhiên theo đầu người rất thấp 0,38 ha/người (đứng thứ 203/218 nước trên thế giới). Các loại đất tốt có đất bazan (2,4 triệu ha chiếm 7,2%), đất phù sa (3,0 triệu ha chiếm 8,7%). 55% diện tích đất tự nhiên được sử dụng vào mục đích cơ bản (nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyên dụng và các khu dân cư). Khoảng 7 triệu ha đất (21,13% diện tích đất tự nhiên) được sử dụng vào nông nghiệp như trồng cây hàng năm (5,5 triệu ha), trồng cây lâu năm (1,1 triệu ha) và đồng cỏ chăn nuôi (0,35 triệu ha). 1.2.Tài nguyên nước Việt Nam Việt Nam là quốc gia có hệ thống sông ngòi dày đặc, có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên) với tổng dòng chảy nước mặt hàng năm từ 830 đến 840 mét khối. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên này chỉ ở mức trung bình trên thế giới, với nhiều yếu tố không

11

bền vững. Tổng lượng nguồn nước từ nước ngoài chảy vào Việt Nam chiểm khoảng 63%. Đối với tài nguyên nước dưới đất, tổng trữ lượng khoảng 189,3 triệu m3/ngày đêm, tập trung ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ và khu vực Tây Nguyên. 1.3.Tài nguyên khoáng sản Việt Nam Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình Dương và Địa Trung Hải. Việt Nam có hơn 3500 mỏ gồm 80 loại khoáng sản. Mới chỉ có 270 mỏ được khai thác gồm 32 loại khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn; dầu mỏ trữ lượng Vịnh Bắc bộ là 500 triệu tấn, Nam Côn sơn 400 triệu tấn, Cửu long 300 triệu tấn, Vịnh Thái lan 300 triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn; khí đốt thiên nhiên có trữ lượng lớn. Tài nguyên khoáng vật của Việt nam được đánh giá là to lớn, đủ cơ sở cho công nghiệp hóa. 1.4.Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam Vùng biển Việt Nam có chiều dài hơn 3.260km (trừ bờ các đảo), với hàng nghìn đảo lớn nhỏ ven bờ và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, rộng trên 1 triệu km2 có nhiều tiềm năng về kinh tế và có độ đa dạng sinh học cao. Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, còn có nhiều hải sản quý như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc trai. Ven bờ có sò, ngao , điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn tấn một năm. Biển Việt Nam nằm trong một trong 5 ổ bão của hành tinh. Hơn 100 năm gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm. 1.5.Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học Tài nguyên rừng: Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống ở rừng, 18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng. Rừng cho vật liệu xâ...


Similar Free PDFs