Tiểu luận triết học mác - lenin - Trường Đại học Ngoại Thương PDF

Title Tiểu luận triết học mác - lenin - Trường Đại học Ngoại Thương
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 35
File Size 397.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 591
Total Views 761

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ...........................TIỂU LUẬN TRIẾT HỌCBIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ VẬN DỤNG VÀOVIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TAHà Nội, 11/TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ...........................TIỂU LUẬN TRIẾT ...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ .............oOo...............

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

1

Hà Nội, 11/2021

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ .............oOo...............

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC 2

BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ VẬN DỤNG VÀO VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA

Hà Nội, 11/2021

MỤC LỤC

Trang

LỜI

MỞ

4

ĐẦU……………………………………………………………... 1. TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHÚNG…………………….. 1.1.

Khái

niệm

“cái

riêng”……………………………. 3

chung”



“cái

5 5

1.2. Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái

6

chung…………………. 1.3.

Ý

nghĩa

phương

pháp

8

luận……………………………………….... 2. CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG NHÌN DƯỚI VẤN ĐỀ KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY……………………………….. 9 2.1.Nền kinh tế thị trường…………………………………………………. 9 2.1.1.

Khái

niệm

kinh

tế

thị

9

trường…………………………………...... 2.1.2. Thực trạng nền kinh tế thị trường ở nước ta………………….....

10

2.1.3. Chuyển sang kinh tế thị trường là điều tất yếu khách

10

quan.......... 2.2.

Kinh

tế

thị

trường

định

hướng

XHCN



nước

12

2.2.1. Khái niệm nền kinh tế thị trường định hướng

12

ta……………………...

XHCN…………….. 2.2.2. Nền kinh tế nước ta mang đặc điểm của nền kinh tế thị trường thế giới…………………………………………………...

12

2.2.3. Những đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam………………………………………………. 4

13

2.2.4. Những thành tựu trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN……………………………………………….

14

3..MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM NHỮNG NĂM TỚI ……………………………..

16

KẾT LUẬN……………………………………………………….............

18

TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….

19

LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh nước ta vừa bước ra từ nền kinh tế phong kiến lạc hậu, sau đó lại trải qua một quá trình dài đấu tranh giữ nước gian khổ, nền kinh tế dần kiệt quệ khiến Việt Nam trở nên lạc hậu trước sự phục hồi và thay đổi của nền kinh tế 5

thế giới. Thêm vào đó, với chủ trương xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp khiến cho đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà Nước đã quyết định thực hiện bước chuyển đổi lớn, đưa đất nước ra khỏi nền kinh tế bao cấp, đến nền kinh tế tập trung và sau đó tiến lên nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, qua đó giúp cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, vững mạnh, tạo cơ hội và tiền đề hướng đến mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh. Phát triển kinh tế thị trường, đây là một quá trình khó khăn và phức tạp, nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi sự nỗ lực học tập không ngừng, linh hoạt, sáng tạo tiếp thu kiến thức trên cơ sở chọn lựa cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của Việt Nam. Trong quá trình học hỏi đó, triết học Mác – Lênin, đặc biệt là cặp phạm trù triết học cái chung – cái riêng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường, là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức về kinh tế thị trường. Với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về vai trò của triết học Mác nói chung và vai trò cặp phạm trù “cái chung, cái riêng” để từ đó góp thêm tiếng nói ủng hộ vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước cùng với việc lĩnh hội kiến thức thị trường trong kinh tế và trong xã hội, em quyết định chọn vấn đề: “Biện chứng giữa cái chung và cái riêng và vận dụng vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta” làm đề tài của mình. 6

Em hi vọng rằng với tiểu luận này em có thể góp phần nhỏ của bản thân trong việc làm rõ, củng cố lòng tin của mọi người vào công cuộc đổi mới của nhà nước ta và cung cấp cái nhìn khoa học cũng như các giải pháp nhằm tiến lên xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Để đạt được mục đích đó, tiểu luận này lần lượt đề cập các khái niệm cái chung – cái riêng, trong đó đặc biệt chú trọng nền kinh tế thị trường, cho tới những đặc điểm và hoàn cảnh của nền kinh tế Việt Nam, từ đó rút ra một số giải pháp phát triển kinh tế thị trường phù hợp và hiệu quả.

1. TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG VÀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CHÚNG 1.1 . Khái niệm “cái chung” và “cái riêng” Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta vẫn thường bắt gặp sự tồn tại của cái chung và cái riêng. Ví dụ như quyển sách này là của riêng tôi, Hương là tên của tôi, nhiệm vụ này là của chung mọi người. Có thể nói chúng ta sử dụng các khái niệm

7

đó một cách thường xuyên nhưng lại vẫn chưa hiểu một cách chuẩn xác các khái niệm này. a . Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan Ví dụ : Một cá nhân cụ thể, một thực vật , động vật nào đấy là cái đơn nhất trong giới tự nhiên. Cái riêng có thể là mỗi hành tinh trong hệ mặt trời , mỗi thành viên trong lớp học chính trị của trường Đại học Ngoại Thương.... Cái riêng còn có thể hiểu là một nhóm sự vật gia nhập vào một nhóm sự vật rộng hơn, phổ biến hơn. Sự tồn tại cá biệt đó của cái riêng cho thấy nó chứa đựng trong bản thân những thuộc tính không lặp lại ở những cấu trúc sự vật khác. Tính chất này được diễn tả bằng khái niệm đơn nhất. Cái đơn nhất là một phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính , những mặt chỉ có ở một sự vật nhất định mà không lặp lại ở những sự vật khác. Ví dụ tính cách của một con người, vân tay, nền văn hóa của một dân tộc ... là cái đơn nhất. Nó cho biết những đặc điểm chỉ có ở riêng người đó, không lặp lại ở một người nào khác. Như vậy cái đơn nhất không phải là một sự vật, một hiện tượng đơn lẻ mà nó luôn tồn tại trong cái riêng. Nó chỉ là đặc trưng của cái riêng. Vì vậy, cần phân biệt “ cái riêng” và “ cái đơn nhất”.

8

Mặt khác, giữa những cái riêng có thể chuyển hóa qua lại với nhau, chứng tỏ giữa chúng có một số đặc điểm chung nào đó. Những đặc điểm chung đó được triết học khái quát thành khái niệm cái chung b . Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, đặc điểm, những yếu tố, quan hệ tồn tại ở nhiều sự vật, hiện tượng Ví dụ: Trong tập thể sinh viên trường đại học Ngoại Thương thì thuộc tính “ là sinh viên trường Đại học Ngoại Thương” là cái chung của các thành viên trong tập thể…Cái chung của người dân Việt Nam là có một lòng nồng nàn yêu nước. Cái chung của chủ nghĩa tư bản là bóc lột thặng dư công nhân làm thuê.... Cái chung thường chứa đựng trong nó tính quy luật, sự lặp lại. Chẳng hạn cái chung bản chất với phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật Mác-xit là vật chất luôn vận động, hay quy luật cung – cầu, quy luật giá trị thặng dư là những đặc điểm chung mà mọi nền kinh tế thị trường bắt buộc phải tuân theo. Nó cho ta một cách nhìn sự vật trong mối quan hệ qua lại, gắn kết với nhau. 1.2 Quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung. Các quan niệm phi Mác-xit có những ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Theo phái duy thực, họ đồng nhất thượng đế với cái chung và cho rằng chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập khách quan và là nguồn sản sinh ra cái riêng. Phát triển ý tưởng của Platon về ý niệm, của Arirstote về “ hình dạng 9

thuần túy” các đại biểu nổi tiếng của trường phái này như G.Owrrigeno cho rằng chỉ có khái niệm phổ biến là tồn tại thực sự, có trước các sự vật riêng biệt. Trong khi đó, phái duy danh mà người đứng đầu là P.Abola (1079 – 1142) và Dumxcot ( 1265 – 1308) lại cho rằng chỉ những sự vật hiện tượng tồn tại riêng biệt với chất lượng riêng của chúng mới là có thật, còn khái niệm cái chung chỉ là sản phẩm tư duy của con người. Những quan điểm trên mang tính phiến diện, có những quan điểm sai lệch về mối qua hệ giữa cái chung và cái riêng. Trong khi đó các nhà duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng mối quan hệ giữa hai phạm trù này mang tính biện chứng, chúng tồn tại độc lập nhưng không tách rời nhau. Mối quan hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng: + Cái chung tồn tại bên trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập bên ngoài cái riêng. Phép biện chứng của cái riêng và cái chung nói trên chỉ có thể thấy rõ trong vấn đề lợi ích kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế phải được thể hiện qua từng thành phần kinh tế với nhiều hình thức sở hữu khác nhau, đối lập nhau. Vì vậy, phải làm thế nào để vừa đảm bảo lợi ích chung của toàn dân, vừa không rơi vào tình trạng triệt tiêu mọi lợi ích chính đáng của từng công dân.

10

+ Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung: Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tương đối độc lập, bất kì cái riêng nào cũng đều liên hệ với cái riêng và liên hệ biện chứng với cái chung. Cái chung xét cho cùng là: Sản phẩm được rút ra từ sự khái quát hóa những phẩm chất của cái riêng cùng loại. Ví dụ như: Khi khảo sát hiện tượng khủng hoảng kinh tế trong một nước nhất định, chúng ta có thể thấy được những đường nét riêng như: hoàn cảnh địa lý đặc thù, tình trạng kinh tế của nước đó khi bắt đầu khủng hoảng....Đây là những yếu tố riêng biệt. Song đằng sau các yếu tố riêng biệt ấy là những cái chung mang tính quy luật của hiện tượng khủng hoảng kinh tế như : tính chu kỳ, hiện tượng thất nghiệp.... Hay đơn giản ta quan sát các hiện tượng viên phấn rơi, quyển sách rơi từ trên cao xuống....Các hiện tượng này là những hiện tượng riêng lẻ , là cái riêng. Nhưng chúng ta đều có một mối liên hệ chung là chịu tác động từ lực hút của trái đất. + Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng là cái toàn thể hơn cái chung. Nó bao gồm cả cái chung và cái đơn nhất. Cái chung sâu sắc hơn cái riêng vì cái riêng phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ ổn định tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.

11

Ví dụ kinh tế thị trường Việt Nam phải tuân theo quy luật nói chung của nền kinh tế thị trường thế giới, song luôn có nét đặc sắc của nền kinh tế thị trường Việt Nam, tồn tại trên đất nước Việt Nam, do con người Việt Nam gây dựng. Cái chung chiếm giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật. Cái chung ở tầm bản chất quy định sự tồn tại, phát triển của sự vật. Cái riêng là cái toàn bộ vì nó là một thực thể sống động. Trong mỗi cái riêng luôn tồn tại đồng thời cả cái chung và cái đơn nhất. Nhờ thế giữa những cái riêng vừa có sự tách biệt vừa có sự tác động qua lại với nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Sự “ va chạm” giữa những cái riêng vừa làm cho những sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, vừa làm cho sự vật tách xa nhau bởi cái đơn nhất. Cũng nhờ sự tương tác này giữa những cái riêng mà cái chung có thể được phát hiện. Ví dụ, người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn,…Còn đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hóa làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên, của đất nước nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống. Như vậy cái chung và cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng làm sâu sắc và phong phú cho cái riêng. Nếu cái chung làm sâu sắc thì cái đơn nhất lại làm đa dạng, phong phú cho cái riêng, làm sinh động hóa thế giới sự vật.

12

+ Trong hoàn cảnh khác nhau, cái chung có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất và ngược lại: Đây là chuyển hóa của các mặt đối lập trong một sự vật. Sự chuyển hóa này phản ánh quá trình vận động đa dạng của các kết cấu vật chất trong thế giới Quá trình chuyển hóa cái đơn nhất thành cái chung thể hiện quá trình phát triển biện chứng của sự vật. Ngược lại sự chuyển hóa cái chung thành cái đơn nhất chỉ ra sự thoái bộ của một sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại của chúng. Ví dụ, sự thay đổi của một thuộc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi trường diễn ra bằng cách ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính của nó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biền của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới sẽ dần mất đi và trở thành cái đơn nhất. Sự phân biệt giữa cái chung và cái đơn nhất nhiều khi chỉ mang tính tương đối. Có những đặc điểm xét ở trong nhóm sự vật này là cái đơn nhất, nhưng khi xét trong nhóm sự vật khác lại là cái chung. Ví dụ như quy luật cung – cầu là cái chung trong nền kinh tế thị trường, nhưng trong toàn bộ các hình thức kinh tế trong lịch sử thì nó lại chỉ là cái đơn nhất, đặc trưng cho nền kinh tế thị trường mà không thể là đặc điểm chung cho mọi hình thức khác như kinh tế tự cung tự cấp chẳng hạn. 13

1.3. Ý nghĩa của phương pháp luận Qua nghiên cứu cặp phạm trù chung – riêng, ta rút ra được ý nghĩa của phương pháp luận như sau: - Trong quá trình xem xét sự vật , hiện tượng, chúng ta không được tách rời cái chung, cái riêng hay ngược lại. - Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng , thông qua cái riêng để biểu thị sự tồn tại của mình nên chỉ có thể tìm cái chung trong cái riêng, xuất phát từ cái riêng, từ những sự vật hiện tượng riêng lẻ, không được xuất phát từ ý nghĩ chủ quan của con người bên ngoài cái riêng. - Do khả năng chuyển hóa của cái chung và cái đơn nhất nên cần phải biết tạo ra những điều kiện thích hợp để đơn nhất tiến bộ trở thành cái chung, cái chung lạc hậu biến thành cái đơn nhất. Trên cơ sở nguyên lý về mối liên hệ giữa cái chung và cái riêng, ta đưa ra một số những giải pháp nhằm phát triển kinh tế thị trường Việt Nam một cách thích hợp, hiệu quả, tăng cường cơ sở vật chất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.

14

2. CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG NHÌN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY Nền kinh tế nước ta đang hòa nhập với nền kinh tế thị trường thế giới, sự giao lưu hàng hóa và đầu tư trực tiếp của nước ngoài làm cho sự vận động của nền kinh tế nước ta gần gũi hơn với nền kinh tế thị trường thế giới. Tương quan giá cả của các loại hàng hóa trong nước gần gũi với tương quan giá cả hàng hóa quốc tế. Thị trường trong nước gắn liền với thị trường thế giới. Nền kinh tế Việt Nam là một bộ phận của nền kinh tế thế giới. Xu hướng chung phát triển kinh tế của thế giới là sự phát triển kinh tế của mỗi nước không thể tách rời sự phát triển và hòa nhập quốc tế, sự cạnh tranh giữa các quốc gia đã thay đổi hẳn về chất, không còn dân số đông, quân đội mạnh là tiềm lực kinh tế. Mục đích của các chính sách, của các quốc gia là tạo được nhiều của cải vật chất, là tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Tiềm lực kinh tế đã trở thành thước đo chủ yếu, vai trò và sức mạnh của mỗi dân tộc, là công cụ bảo vệ uy tín và duy trì sức mạnh của đảng cầm quyền. Nhận diện được cái chung và cái riêng dưới vấn đề kinh tế Việt Nam và kinh tế thế giới từ đó thấy được tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam. Với tư cách là một bộ phận của nền kinh tế thế giới thì việc tiếp thu những đặc trưng cơ bản, những nét chung trong tổng thể đó để hoàn thiện nền kinh tế Việt Nam là tất yếu. Tuy nhiên ta không được phép chỉ tiếp thu một cách hình 15

thức mà phải tiếp thu có chọn lọc cho phù hợp với điều kiện đất nước. Phải giữ được những nét đặc trưng riêng tức là phải bảo tồn cái đơn nhất của kinh tế Việt Nam từ đó còn phải xây dựng một nền kinh tế thị trường mới về thể chất, thể hiện sự phát triển. 2.1. Nền kinh tế thị trường 2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường Theo góc độ vĩ mô, thị trường là một phạm trù kinh tế tồn tại một cách khách quan cùng với sự tồn tại và phát triển của sản xuất hàng hóa và lưu thông hàng hóa. Ở đâu và khi nào có sản xuất thì ở đó và khi ấy có thị trường. Ta cũng có thể định nghĩa thị trường là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hóa, nơi cung gặp cầu. Theo C. Mác, kinh tế thị trường là một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử mà bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con đường phát triển và nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát triển đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn là nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là nền kinh tế XHCN, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết sức. Vì vậy, kinh tế thị trường là một hệ thống tự điều chỉnh nền kinh tế, bảo đảm có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao; dư thừa và phong phú hàng hóa; dịch vụ được mở rộng và coi như hàng hóa thị trường; luôn đổi mới mặt hàng, công nghệ, 16

thị trường. Đó là một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, với những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hóa, tự do kinh doanh, tự do thương mại, đa dạng hóa sở hữu, phân phối do quan hệ cung – cầu... 2.1.2. Thực trạng nền kinh tế ở nước ta Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém. Theo UNDP, Việt Nam ở trình độ công nghệ lạc hậu 2/7 của thế giới, thiết bị máy móc lạc hậu 2-3 thế hệ. Lao động thủ công chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó, năng suất lao động xã hội còn thấp và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp Hệ thống kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, hệ thống thông tin liên lạc,…dịch vụ sản xuất xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế trong nước và chưa có khả năng giao lưu với thị trường quốc tế Nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động, khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế, chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền tệ Chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra chậm. Nhìn chung nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn thu hút tới 70% lực lượng lao động nhưng chỉ chiếm 26% trong tổng GDP. Trong công nghiệp thì các ngành công nghiệp hiện đại, công nghiệp công nghệ cao còn chiếm tỷ lệ nhỏ 17

Nền kinh tế của đất nước đã như vậy cộng thêm cơ chế quản lý tập trung, quan lieu bao cấp mà đất nước ta còn mất đi sự viện trợ của Liên Xô và các nước XHCN cũ, cấm vận hành kinh tế, đặc biệt là lệnh cấm vận kinh tế của Mĩ. Chính vì vậy, giai đoạn 1975-1985 nền kinh tế nươc sta chậm phát triển. Những mâu thuẫn nội tại từ nền kinh tế nước ta đòi hỏi phải đổi mới kinh tế để thoát khỏi khủng hoảng và thúc đẩy các yếu tố hàng hóa phát triển. 2.1.3. Chuyển sang kinh tế thị trường là điều tất yếu khách quan Với một nền kinh tế kế hoạch hóa quan liêu bao cấp và do sự không hài hòa giữa các nền kinh tế cùng với sự chủ quan cứng nhắc không phù hợp của cơ chế quản lý mà chúng ta đã không tạo ra được động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Việc quản lý kinh tế của nhà nước lại sử dụng các công cụ hành chính theo kiểu chiến không phù hợp với yêu cầu của thời đại, kìm hãm sự sáng tạo và phát triển cũng như khả năng tư duy của người lao động. Chính vì việc tập trung quá nhiều vào cái riêng cái bên ngoài, đó là những mục tiêu phát triển mà quên đi cái riêng là sở hữu tư nhân và cá nhân. Điều đó trái với quy luật phát triển và quan hệ giữa cái chung và cái riêng dẫn đến sự sa sút của nền kinh tế, khiến nền kinh tế bị kìm hãm, lạc hậu. Trong khi đó, CNTB đã đạt được những thành tựu về kinh tế-xã hội rõ rệt, nâng cao năng suất lao động, thị trường, hàng hóa. Tháng 2 năm 1986 Đại hội toàn quốc lần thứ 6 Đảng cộng sản Việt Nam đã tự phê phán nghiêm túc và đề ra đổi mới toàn diện xã hội. Đổi mới 18

toàn diện cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận dụng theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hư...


Similar Free PDFs