TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG PDF

Title TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
Author K60 HOÀNG HẢI YẾN
Course Triết học Mác Lênin
Institution Trường Đại học Ngoại thương
Pages 19
File Size 304.1 KB
File Type PDF
Total Downloads 55
Total Views 193

Summary

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNGKHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊTIỂU LUẬN TRIẾT HỌCVẬN DỤNG NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUYVẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠISố thứ tự : 40 Sinh viên thực hiện : Hoàng Hải Yến Mã sinh viên : 2114530012 Lớp tín chỉ : TRIE114. Giảng viên hướng dẫn : TS. Đào Thị...


Description

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC

VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC LỊCH SỬ - CỤ THỂ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI NGOẠI Số thứ tự

: 40

Sinh viên thực hiện

: Hoàng Hải Yến

Mã sinh viên

: 2114530012

Lớp tín chỉ

: TRIE114.5

Giảng viên hướng dẫn

: TS. Đào Thị Trang

Hà Nội, 2021

1

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………3 PHẦN I. Lý luận về quan điểm lịch sử-cụ thể trong Triết học Mác-Lênin:.......4 1. Biện chứng và phép biện chứng:......................................................................4 1.1

Biện chứng:................................................................................................4

1.2

Phép biện chứng:........................................................................................4

2. Phép biện chứng duy vật:.................................................................................4 2.1

Lịch sử vấn đề:...........................................................................................4

2.2

Nội dung và đặc trưng của phép biện chứng duy vật:................................5

3. Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể:..............................................5 4. Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể:.............................................................6 5. Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại:...........................................................................................8 PHẦN II........Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại:..........................................................................9 1. Đổi Mới:.........................................................................................................10 2. Những tiền đề của tư tưởng Đổi Mới:............................................................10 3. Đổi mới về kinh tế:.........................................................................................13 4. Đổi Mới về chính trị:......................................................................................16 5. Đổi Mới về văn hóa:.......................................................................................17 6. Đổi Mới trên các mặt khác:............................................................................17

2

LỜI MỞ ĐẦU Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên cơ sở một hệ thống nhữngnguyên lý, những phạm trù cơ bản, những quy luật phổ biến phản ánh đúng đắn của hiện thực. Một số quan điểm cơ bản được rút ra từ nội dung của phép biện chứng duy vật giữ vai trò định hướng cho hoạt động nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng. Nguyên tắc quan điểm lịch sử-cụ thể là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn ấy. Bên cạnh đó, kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộphận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Kinh tế đối ngoại được ví như một mắt xích quan trọng trong guồng máy của nền kinh tế, đóng vai trò quan trọng, nhất là trong xu thế hội nhập vàphát triển hiện nay, không những góp phần đắc lực vào quá trình thúc đẩy toàn bộ nền kinh tế phát triển mà còn mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác quốc tế cảvề các lĩnh vực khác. Trong thời đại nền kinh tế mở và cạnh tranh như hiện nay, mỗi quốc gia phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực thế giới và thời đại. Điều đó cũng có nghĩa là phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động, phát triển không ngừng. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể của triết học Mác - Lênin vào quá trình đổi mới, phát triển kinh tế là rất cần thiết. Quán triệt quan điểm lịch sử-cụ thể vào quá trình đối mới kinh tế sẽ giúp cho nền kinh tế thế giới có được hướng đi đúng đắn. Để đạt được mục đích trên em xin chọn đề tài “Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thểcủa phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” cho bài tiểuluận triết học của mình. Bài tiểu luận gồm hai phần lớn là Lý luận về quan điểmlịch sử-cụ thể và Vận dụng quan điểm lịch sử-cụ thể của phép biện chứng tronghoạt động kinh tế đối ngoại. Do những hạn chế về mặt kiến thức và thời gian bài tiểu luận này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn!

3

PHẦN I. Lý luận về quan điểm lịch sử-cụ thể trong Triết học MácLênin: 1. Biện chứng và phép biện chứng: 1.1 Biện chứng: a) Khái niệm: Biện chứng là khái niệm chỉ sự liên hệ, vận động, chuyển hóa và phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới. b) Các loại biện chứng: - Biện chứng khách quan: biện chứng của thế giới vật chất. - Biện chứng chủ quan: biện chứng của tư duy, ý thức, là kết quả phản ánh biện chứng khách quan vào bộ não con người. 1.1 Phép biện chứng: a) Khái niệm: Phép biện chứng là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của tự nhiên, xã hội và tư duy thành hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học. b) Các hình thức cơ bản của phép biện chứng: 3 hình thức - Phép biện chứng chất phác thời cổ đại: chủ yếu dựa trên quan sát. - Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức: biện chứng của ý niệm (tinh thần) là bản gốc sinh ra biện chứng của thế giới vật chất. - Phép biện chứng duy vật: triết học Mác-Lênin.

2.

Phép biện chứng duy vật:

2.1

Lịch sử vấn đề: Phương pháp duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật biện chứng là một bộ

phận của học thuyết triết học do Karl Marx đề xướng. Cốt lõi của chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật kết hợp với phép biện chứng. Marx đã kế thừa tư tưởng về phương pháp biện chứng của Georg Wilhelm Friedrich Hegel và lý luận về chủ nghĩa duy vật của Ludwig Andreas von Feuerbach và 4

phát triển nên phương pháp luận này. Các nhà triết học Marx-Lenin cho rằng phương pháp duy vật biện chứng là cơ sở triết học cho hệ tư tưởng của họ. 2.2 Nội dung và đặc trưng của phép biện chứng duy vật: - Nội dung: Biện chứng của thế giới vật chất có trước sinh ra biện chứng của thế giới tinh thần. - Đặc trưng: coi một sự vật hay một hiện tượng trong trạng thái luôn phát triển và xem xét nó trong mối quan hệ với các sự vật và hiện tượng khác. Phép biện chứng duy vật được xây dựng trên nền tảng thế giới quan duy vật khoa học và có sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng (không chỉ giải thích thế giới mà còn có vai trò cải tạo thế giới).

3.

Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể: Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình

thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể làm thay đổi hòan toàn bản chất của sự vật, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử-cụ thể khác nhau đó. Theo triết học Mác-Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế giới khách quan trong quá trình lịch sử-cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử- cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát triển của sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều 5

kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian và thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử- cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát sinh, phát triển, chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện tượng tồn tại.

4.

Yêu cầu của quan điểm lịch sử cụ thể: Quan điểm lịch sử có 6 yêu cầu:

- Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử-cụ thể. Nguyên tắc lịch sử-cụ thể được V.I. Lê nin nêu rõ và cô động: “Xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn theo trình tự không gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử-cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể theo trình tự nghiêm ngăt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và đa dạng của các hình 6

thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận thức được bản chất của nó. -Thứ hai: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật, hiện tượng. -Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hóa thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái khác hay thành các mặt đối lập của nó thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất lượng và số lượng đặc thù, nhận thức được bản chất của nó. -Thứ tư: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện 7

tượng trong các mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức, nguyên tắc lịch sử-cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học trước đó. -Thứ năm: Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử-cụ thể nói riêng và đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử-cụ thể không kết hợp các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò của chúng để tạo nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử. -Thứ sáu: Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử-cụ thể là cần thấy các mối liên hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh hướng giáo điều, chung chung, trừu tượng, không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng khuynh hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.

5.

Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại: Các hoạt động kinh tế đối ngoại có tầm quan trọng và ảnh hưởng vô cùng to

lớn trong việc liên kết hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội của các nước trên toàn cầu, qua đó mở rộng giao lưu, học hỏi kinh nghiệm giữa các 8

nước. Tuy nhiên, mỗi nước, mỗi khu vực trên thế giới lại có những đặc thù về lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội khác nhau. Do đó, các nhà cầm quyền cần vận dụng linh hoạt kiến thức, áp dụng các chính sách phát triển đúng thời điểm, đúng chỗ, sử dụng quan điểm lịch sử-cụ thể chính xác làm cho nền kinh tế nước nhà tăng trưởng hơn nữa, tạo tiền đề và bước đệm cho nền kinh tế thế giới khởi sắc và phát triển vượt bậc. Kết luận: Ta có thể thấy rõ ràng rằng ngày nay, tình hình thế giới vẫn diễn biến quanh co, phức tạp đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ cần được giải quyết. Nắm vững phép biện chứng duy vật, vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật giúp nhận thức được tính biện chứng của thế giới, tính tất yếu của công cuộc đổi mới và nhu cầu cấp bách phát triển kinh tế hiện nay. Thực tiễn cho thấy những con đường thúc đẩy kinh tế, phải triển thế giới không tuân theo những công thức có sẵn, bất biến mà chúng được vận dụng linh hoạt, mềm dẻo, luôn đổi mới để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước và tình hình quốc tế trong từng giai đoạn. Ví dụ thuyết phục nhất là con đường của cách mạng Việt Nam được xác định là Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là con đường duy nhất đúng, thể hiện sự nhận thức và vận dụng sáng tạo các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin nói chung, các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản của phép biện chứng duy vật nói riêng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

9

PHẦN II. Vận dụng nguyên tắc lịch sử-cụ thể của phép biện chứng duy vật trong hoạt động kinh tế đối ngoại: Một trong những hoạt động kinh tế đối ngoại tiêu biểu nhất cho việc vận dụng và phát triển sáng tạo, hiệu quả Chủ nghĩa Mác Lê – nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta chính là chính sách Đổi Mới.

1.

Đổi Mới:

Đổi Mới là một chương trình cải cách kinh tế và một số mặt xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng vào thập niên 1980. Chính sách Đổi Mới được chính thức thực hiện từ Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Việt Nam lần VI, năm 1986. Đổi Mới về kinh tế được thực hiện trước tiên. Trong những năm đầu thế kỷ 21, Việt Nam mới bắt đầu thực hiện Đổi Mới trên các mặt khác: xã hội, chính trị, tư duy, cơ chế, văn hóa… Tuy nhiên, chính trị không có những thay đổi nhiều so với kinh tế. Đổi Mới ở Việt Nam tương tự chính sách kinh tế mới của Liên Xô giai đoạn Lenin lãnh đạo (1921-1924), Cải Cách Khai Phóng ở Trung Quốc và Đổi Mới ở Lào.

2.

Những tiền đề của tư tưởng Đổi Mới: Kinh tế thị trường: Những người theo chủ nghĩa Stalin (không nhầm lẫn với chủ nghĩa

Marx nguyên bản) nhiều lần nhấn mạnh rằng cơ chế thị trường là một cơ chế hoạt động kém, cần phải được thay bằng cơ chế kế hoạch hóa có ý thức. Một trong những mục đích của việc xóa bỏ hệ thống sở hữu tư nhân chính là để chấm dứt cách điều phối sản xuất thị trường một cách mù quáng và dọ dẫm, để thay thế nó bằng kế hoạch có ý thức. Oscar Lange đã phác họa một nền kinh tế mà các công ty sở hữu công cộng có 10

thể tối đa hóa lợi nhuận của mình hoặc hoạt động theo công thức tối ưu hóa gần như thế. Cơ quan kế hoạch trung ương cố gắng thiết lập các giá cả cân bằng và làm trong sạch thị trường bằng cách mô phỏng cơ chế thị trường: khi thấy nhu cầu tăng, nó tăng giá lên và khi thấy nhu cầu giảm, nó giảm giá xuống. Ông khẳng định rằng một hệ thống như vậy có khả năng cân bằng giữa cung và cầu Tuy nhiên, Friedrich von Hayek đã bác bỏ tư tưởng trên của Lange bằng lập luận: vấn đề lớn thực sự của chủ nghĩa xã hội không phải là việc liệu nó có thiết lập được giá cả cân bằng hay không mà là vấn đề có những động cơ khuyến khích gì để thu thập và áp dụng nhanh chóng những thông tin nhất thiết là tản mạn, lẫn lộn ở nhiều chỗ khác nhau. Những thông tin tản mạn đó được Hayek gọi là tri thức riêng phần, những tri thức được sở hữu và chỉ được sử dụng tốt nhất bởi mỗi cá nhân. Trong bài luận "Sử dụng tri thức trong xã hội" (The Use of Knowledge in Society) đăng trên chuyên san American Economic Review năm 1945, Hayek cho thấy rằng kế hoạch hóa kinh tế tỏ ra kém hiệu quả hơn so với tự do hóa kinh tế bởi vì kế hoạch hóa không thể giải được bài toán của hệ thống giá cả là một hệ thống tự phát giúp con người truyền tải tri thức cần thiết từ người này sang người khác để phối hợp với kế hoạch cá nhân riêng rẽ. Chính vì thế, Hayek chủ trương rằng cần phải để nền kinh tế hoạt động tự do trên nguyên tắc của cơ chế thị trường. Kinh tế thị trường và học thuyết xã hội chủ nghĩa: Chúng ta không nên lầm tưởng kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Quan niệm này xuất phát từ mô hình kinh tế bao cấp của Liên Xô và Đông Âu trước kia. Thực ra, theo lý luận của Lenin thì chủ nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ 11

nghĩa cộng sản. Trong đó mô hình kinh tế là hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với kinh tế tư bản tư nhân. Theo đó, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình. Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế bao cấp, khiến nhiều người lầm tưởng chủ nghĩa xã hội chỉ gắn liền với kinh tế bao cấp. Những lý luận đầu tiên về chủ nghĩa xã hội thị trường được nhà kinh tế Enrico Barone người Ý nêu ra vào năm 1908 trong tác phẩm "Il Ministro della Produzione nello Stato Collettivista", tạp chi Giornale degli Economisti, số 2, tháng Chín-Mười, trang 267-293. Barone đã đưa ra một mô hình toán về một nền kinh tế tập thể, theo đó các quan hệ tiền tệ hàng hóa trong nền kinh tế đều có thể tính toán được và từ đó có thể điều chỉnh để sao cho phúc lợi tập thể đạt mức tối ưu. Năm 1929, Fred Manville Taylor người Mỹ trong công trình "The Guidance of Production in a Socialist State," tạp chí American Economic Review, số 19(1), trang 1-8, đã nêu ra những điều kiện để nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có thể, về mặt lý thuyết, đạt được hiệu quả trong phân phối nguồn lực. Trên cơ sở hình của Barone, vào năm 1936 nhà...


Similar Free PDFs