BÀI TẬP NHÓM MÔN TRIẾT - sCVXV PDF

Title BÀI TẬP NHÓM MÔN TRIẾT - sCVXV
Author khanh nguyen
Course Ielts Listening
Institution Trường Đại học Bách khoa Hà Nội
Pages 11
File Size 251.4 KB
File Type PDF
Total Downloads 27
Total Views 106

Summary

Download BÀI TẬP NHÓM MÔN TRIẾT - sCVXV PDF


Description

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIỂM SÁT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM MÔN: TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN CHUYÊN ĐỀ: “QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP”. LỚP TMK2A DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM: Vũ Thị Minh Ngọc Nguyễn Thị Phương Thanh Nguyễn Khánh Ly Nguyễn Hương Giang Ngô Phương Anh

1

Phan Thị Mai Anh Nguyễn Bỉnh Ngọc Khánh Vũ Thị Minh Phương Vũ Kim Yến Trịnh Thục Anh

MỤC LỤC Chuyên mục Phần I/ Mở đầu Phần II/ Nội dung 1. Vị trí của quy luật 2. Nội dung của quy luật 2.1.Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn 2.2. Quá trình vận động của mâu thuẫn 3. Phân loại mâu thuẫn 4. Ý nghĩa phương pháp luận 5. Vận dụng vào đời sống thực tiễn hiện nay 5.1. Sự đối lập và thống nhất giữa phát triển kinh tế và môi trường tự nhiên 5.2. Mâu thuẫn giữa lợi nhuận và môi trường Phần III/ Kết luận

Trang 3 3 3 3 3-4 4-6 6-8 8 8 8 - 10 10 10

2

I.

MỞ ĐẦU

Triết học là một bộ phận chung nhất, nghiên cứu về các sự vật và hiện tượng của tự nhiên à xã hội, nhằm tìm ra các quy luật của các đối tượng nghiên cứu. Mục đích của triết học là giải quyết các vấn đề cơ bản của bản thể luận và nhaanj thức luận… Một trong những quy luật cơ bản nhất của triết học đó là quy luật mâu thuẫn, thông qua quy luật mâu thuẫn, giải quyết được sự đấu tranh và phát triển của sự vật hiện tượng. Trong khuôn khổ chuyên đề, nhóm chúng em xin đưa ra những nhận định về vấn đề: “Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên do trình độ nhận thức hiểu biết về mọi mặt còn hạn chế, nên không tránh khỏi những sai sót. Chúng em rất mong giảng viên góp ý để chuyên đề này được hoàn thiện hơn. Chúng em xin chân thành cảm ơn!

II.

NỘI DUNG

1. Vị trí của quy luật Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập không chỉ là một trong ba quy luật cơ bản mà còn được coi là “hạt nhân” của phép biện chứng duy vật. Theo V.I Lênin, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát triển thêm”. Đây là quy luật về nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động và phát triển. Theo quy luật này, nguồn gốc và động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật, hiện tượng. 2. Nội dung của quy luật 2.1. Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn Trong phép biện chứng, mặt đối lập là phạm trù triết học chỉ những mặt có đặc điểm, thuộc tính, tính quy định có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau tồn tại khách quan trong sự vật. Thí dụ, đồng hoá và dị hoá của một cơ thể sống; cực bắc

3

và cực nam trong thanh nam châm; sản xuất và tiêu dùng trong hoạt động kinh tế của xã hội; chân lý và sai lầm trong quá trình phát triển của nhận thức,v.v… Trong phép biện chứng, mâu thuẫn là sự liên hệ tác động qua lại lẫn nhau của hai mặt đối lập biện chứng. Mâu thuẫn được hình thành từ hai mặt đối lập nhưng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ khi hai mặt đối lập cùng tồn tại trong cùng một sự vật, trong cùng một thời gian, về cùng một mối liên hệ và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Thí dụ: đồng hoá và dị hoá trong cùng một cơ thể sống; cùng về một mối liên hệ ở đây là cùng về năng lượng (đồng hoá là nạp năng lượng, dị hoá là giải phóng năng lượng); đồng hoá và dị hoá thường xuyên tác động theo nghĩa nhờ đồng hoá mà cơ thể mới có nhu cầu dị hoá. Ngược lại nhờ dị hoá thì cơ thể mới đồng hoá được. Mâu thuẫn có các tính chất chung như sau: - Tính khách quan và tính phổ biến: Mâu thuẫn có tính khách quan vì nó là cái vốn có trong sự vật, hiện tượng, là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.(lấy ví dụ và phân tích ) - Tính đa dạng, phong phú: Mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhau. Chúng giữ những vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật.( lấy ví dụ) 2.2 Quá trình vận động của mâu thuẫn Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. - Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập có thể được hiểu như sau: Thứ nhất, thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại. Như thí dụ trên, đồng hoá làm tiền đề cơ sở cho dị hoá và dị hoá làm tiền đề cơ sở cho đồng hoá. Không có đồng hoá thì cũng chẳng có dị hoá và ngược lại.

4

Thứ hai, giữa hai mặt đối lập có những yếu tố đồng nhất, giống nhau, tương đồng nhau. Trong thí dụ trên thì đồng hoá cần đến dị hoá và dị hoá cần đến đồng hoá. Điểm giống nhau là cần đến nhau. Tương tự như nhà đầu tư tư bản và nước ta, mặc dù là đối lập nhau nhưng có điểm chung là lợi ích. Lợi ích chính là điểm giống nhau. Thứ ba, giữa hai mặt đối lập có trạng thái cân bằng, tác động ngang nhau. Trong thí dụ trên, đó chính là lúc con người không đói và cũng không khát. Đấy là lúc đồng hoá và dị hoá cân bằng nhau, tác động ngang nhau. Trong xã hội, đó là thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ quá độ cái cũ và cái mới đan xen nhau, chưa cái nào thắng cái nào; xã hội mới chưa khẳng định được mình, xã hội cũ thì chưa mất hoàn toàn. Ví dụ: Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích giai cấp tư sản nhưng lại tạo tiền đề cho sự thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội - Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu, kìm hãm noa diễn ra gay gắt và quyết liệt. Chỉ có thông qua các cuộc cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản. - Mối quan hệ giữa sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập: Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập thì đấu tranh là tuyệt đối vì nó diễn ra thường xuyên, liên tục, trong tất cả quá trình vận động, phát triển của sự vật; còn sự thống nhất chỉ là tương đối, có điều kiện, tạm thời, vì ngay trong sự thống nhất của các mặt đối lập cũng đã hàm chứa những nhân tố phá vỡ sự thống nhất đó. Thống nhất và đấu tranh có mối quan hệ ràng buộc, không tách rời nhau: trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của chúng.

5

- Chuyển hóa giữa các mặt đối lập Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập là kết quả tất yếu của quá trình thống nhất và đấu tranh giữa chúng. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì mặt này sẽ chuyển hóa sang mặt kia và ngược lại, hoặc cả hai mặt đối lập chuyển sang một hình thức mới, cao hơn. Lúc đó, mâu thuẫn cũ sẽ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và quá trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới, đúng như V.I Lênin đã khẳng định: “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Ví dụ: Nền kinh tế Việt Nam chuyển từ kế hoạch tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3. Phân loại mâu thuẫn Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta phân biệt các mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: - Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập nhau của cùng một sự vật. Thí dụ, mâu thuẫn giữa đột biến và di truyền trong cơ thể động vật.( ví dụ) - Mâu thuẫn bên ngoài là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập nhau của các sự vật khác nhau. Thí dụ, mâu thuẫn giữa con người với môi trường tự nhiên bên ngoài.(ví dụ) Sự phân chia thành mâu thuẫn bên trong và bên ngoài chỉ có tính tương đối. Trong mối liên hệ này một mâu thuẫn nào đó được coi là mâu thuẫn bên trong, nhưng trong mối liên hệ khác lại được coi là mâu thuẫn bên ngoài. Thí dụ, mâu thuẫn giữa con người và tự nhiên nếu ta lấy con người và tự nhiên làm sự vật thì đó là mâu thuẫn bên ngoài. Nhưng nếu ta lấy mối liên hệ giữa hệ thiên hà và mặt trời làm sự vật thì đó có thể lại là mâu thuẫn bên trong hệ thiên hà mặt trời của chúng ta, v.v… 6

Mâu thuẫn bên trong đóng vai trò quyết định trực tiếp đối với sự vận động phát triển của sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đóng vai trò quan trọng nhưng chỉ phát huy tác dụng thông qua mâu thuẫn bên trong. Giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài. Giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên trong. Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, người ta chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản: - Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật và tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật. Thí dụ, mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn giữa khuynh hướng tự giác lên chủ nghĩa xã hội với khuynh hướng tự phát lên chủ nghĩa tư bản.(ví dụ) - Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật và quy định sự vận động phát triển của phương diện đó của sự vật. Thí dụ, mâu thuẫn giữa lao động trí óc và lao động chân tay trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.(ví dụ) Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của sự vật trong một giai đoạn phát triển nhất định, người ta chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu: - Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật.ví dụ - Mâu thuẫn không chủ yếu là mâu thuẫn mà việc giải quyết nó không quyết định việc giải quyết các mâu thuẫn khác ở giai đoạn đó của sự vật.ví dụ Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng: - Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, tập đoàn người, những nhóm xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hoà. Thí dụ, mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ trong xã hội phong kiến, v.v…ví dụ - Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích nhưng đó không phải là lợi ích cơ bản, mà chỉ là lợi ích 7

cục bộ, tạm thời. Thí dụ, mâu thuẫn giữa công nhân và nông dân về những lợi ích tạm thời nào đó.ví dụ 4. Ý nghĩa phương pháp luận Trước hết cần phải thấy được động lực phát triển của sự vật không phải ở ngoài sự vật mà là những mâu thuẫn trong bản thân sự vật. Vì vậy, không nên sợ mâu thuẫn hay né tránh mâu thuẫn. Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển, do vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập của mâu thuẫn, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển. Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú nên trong việc nhận thức và giải quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể từng loại mâu thuẫn và phương pháp giải quyết phù hợp. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi, cho nên không được giải quyết mâu thuẫn nóng vội khi chưa có điều kiện chín muồi, nhưng cũng không được để việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra tự phát. Nếu điều kiện chưa chín muồi có thể thông qua hoạt động thực tiễn để thúc đẩy điều kiện nhanh đến. 5. Vận dụng vào đời sống thực tiễn ngày nay. 5.1. Sự đối lập và thống nhất giữa phát triển kinh tế và môi trường tự nhiên. Sự đối lập: Theo quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, để tiến hành sản xuất vật chất, con người vừa phải quan hệ với giới tự nhiên nhằm biến đổi giới tự nhiên, quan hệ đó được biểu hiện ở lực lượng sản xuất; vừa phải quan hệ với nhau trong một quá trình sản xuất, biểu hiện ở quan hệ sản xuất. Đây là quan hệ “kép” mang tính khách quan, phổ biến trong lịch sử sản xuất vật chất của nhân loại. Muốn có tang trưởng kinh tế bắt buuocj con người phải tác động vào giới tự nhiên, làm thay đổi chúng, bắt chúng phục vụ nhu cầu con người, mà cụ thể ở đây là các hoạt động kinh tế - xã hội là nguồn gốc chính làm thay đổi môi trường sinh thái hiệ nay. Khi tác động vào tự nhiên con người khai thác nguồn nguyên liệu để đảm bảo cho quá trình mở rộng sản xuất, khai thác quá mức và trên phạm vi lớn không những làm

8

suy thoái tài nguyên mà còn làm giảm chất lượng sinh thái. Đây chính là mâu thuẫn, kinh tế càng phát triển thì sẽ làm cho môi trường sống ngày càng xấu đi. Bên cạnh khi con người, nhà máy sử dụng tài nguyên thiên nhiên, phục vụ nhu càu đời sống, họ lại sản sinh ra những loại chất thải làm hủy hoại môi trường. Với mục tiêu công nghiệp hoa hiện đại hóa ở nước ta, cơ cấu ngành chuyển dịch theo hướng tang công nghiệp, dịch vụ. Với lợi thế so sánh của nước ta như công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, dầu khí điện năng, chế biến nông lâm, hải sản, dệt may, và sản xuất sắt thép tiềm ẩn nguy cơ ô nhiễm môi trường rất lớn. Bởi vì các ngành công nghiệp trên đều thuộc danh mục ô nhiễm môi trường rất lớn. Mặt khác việc tiêu thụ nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp này, ví dụ như năng lượng hóa thạch như than, dầu, xăng thải ra môi trường một lượng khí độc gây hại cho nầu không khí. Chiến lược phát triển kinh tế hướng đến tang trưởng cao trong thời gian dài, và áp đặt chỉ tiêu tang trưởng GDP, thu hút đầu tư FDI cho các tỉnh thành bằng mọi giá và cái giá phải trả về môi trường là rất lớn. Sai lầm trong chiến lược của trung ương và sự thiển cận trong chính sách địa phương đã dẫn tới nhiều cuộc đua xuống dấy về thu hút FDI Và tang trưởng GDP, bất chấp cái giá rắt đắt về môi trường cũng như hệ lụy kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế là xu hướng tất yếu của mỗi đất nước. Mặc dù phát triển ở trình độ cao hay thấp đều có tác động lớn nhỏ đến môi trường sinh thái. Tuy nhiên, các nền kinh tế phát triển thấp chủ trương tang trưởng quá nóng, thiếu các chế tài luật lệ, nhằm bảo vệ môi trường, thậm chí các nước còn hi sinh môi trường cho sự phát triển kinh tế nhờ tiết kiệm được các khoản chi tiêu ngân sách về môi trường. Sự thống nhất: Tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường không những là hai mặt đối lập trong mâu thuẫn biện chứng mà còn tồn tại sự thống nhất lẫn nhau. Và sự tác động giữa chúng mang tính chất nương tựa, không tách rời nhau, sự thay đổi của tăng trưởng kinh tế dẫn đến sự thay đổi của môi trường và ngược lại. Môi trường là xuất phát điểm hay là một chỉ tiêu khi đánh giá sự tăng trưởng của một nước. trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thì đi kèm với sự phát triển kinh tế, con người phải gánh chịu hậu quả do tác động trở lại của môi trường như ô nhiemexm nặng môi trường không khí, hệ sinh thái biển,… Nhờ nhận diện được các hậu quả của môi trương mà chúng ta có thể xây dựng được các chính sách phát triển kinh tế tiến bộ và thân thiện với môi trường. 5.2. Mâu thuẫn giữa lợi nhuận các doanh nghiệp và môi trường

9

Mâu thuẫn thứ hai mà chúng ta không thể bỏ qua đó là mâu thuẫn giựa lợi nhuận các công ty, nhà máy xí nghiệp. Họ sản xuất để tạo ra của cải vật chất phục vụ đời sống con người và đem lợi nhuận cho chính họ, tuy nhiên chính những hoạt động này cũng tác động rất lớn đên môi trường sống của con người, thông qua việc xả các chất thải rắn, lỏng, khí ra môi trường bên ngoài. Và các ông chủ nhà máy luôn có xu hướng giảm thiểu tối đa các chi phí về xử lý chất thải nhằm bảo vệ môi trường nhằm tăng lợi nhuận cho công ty. Chính những hệ lụy về môi trường đã buộc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đưa ra các chính sách về môi trường thích hợp, nhăm cân đối được lợi ích doanh nghiệp và việc bảo vệ môi trường sống.

III. KẾT LUẬN Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến, nó tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, ở mọi giai đoạn tồn tại và phát triển của sự vật vât hiện tượng. Nhưng ở các sự vật, hiện tượng khác nhau ở mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của mỗi sự vật hiện tượng ở mỗi lĩnh vực, mỗi yếu tố cấu thành môt sự vật sẽ có những mâu thuẫn khác nhau. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển dẫn đến sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn. Do đó, trong hoạt động thực tiễn phát triển từng mặt đôc lập tạo thành mâu thuẫn cụ thể để nhận thức được bản chất, khuynh hướng vận động phát triển của sự vật, hiện tượng để từ đó tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượg có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực hiện để giải quyết mâu thuẫn. Vì vậy trong đời sống xã hội, mọi hành vi đấu tranh cần đươc coi là chân chính khi nó thúc đẩy sự phát triển. Việc xuất hiện những mâu thuẫn trong kinh tế phải được coi là một thực thế khách quan. Bởi vỡ việc giải quyết những mâu thuẫn ấy chính là động lực để chúng ta có thể phát huy được hết thế mạnh của mình, duy trì sự thống nhất và ổn định, nhằm mục tiêu chung là phát triển kinh tế, mang lại cuộc sống ấm no hạnh phúc và một xã hội cụng bằng, dân chủ, văn minh. Trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hưóng XHCN ở nước ta đó đạt được nhiều thành tựu to lớn. Song bên cạnh đó nó đang nảy sinh hàng loạt mâu thuẫn giữa các kiểu kinh tế thị trường như là một đặc

10

trưng của CNTB với việc thực hiện kinh tế thị trường ở nước ta, mâu thuẫn giữa sự yếu kém của quan hệ sản xuất so với trình độ phát triển cả lực lượng sản xuất, giữa việc phát triển kinh tế thị trường với định hướng XHCN, mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người XHCN … Sự thành công trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta phụ thuộc vào việc giải quyết các mâu thuẫn trên. Vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu những mâu thuẫn đó và tìm ra phương hướng giải quyết chúng. Nghiên cứu mâu thuẫn là phải thấy được mâu thuẫn nào là cơ bản, mâu thuẫn nào là không cơ bản, rồi cuối cùng tìm ra hướng giải quyết, từ đó các mâu thuẫn không cơ bản sẽ được giải quyết.

11...


Similar Free PDFs