Tiểu luận luật kinh doanh PDF

Title Tiểu luận luật kinh doanh
Course Luật kinh doanh
Institution Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh
Pages 15
File Size 249.3 KB
File Type PDF
Total Downloads 16
Total Views 116

Summary

Download Tiểu luận luật kinh doanh PDF


Description

ĐẠI HỌC UEH TRƯỜNG KINH DOANH

TIỂU LUẬN Môn học: LUẬT KINH DOANH

Giảng viên:…..Cô Nguyễn Khánh Phương….. Mã lớp học phần: …. 21C1LAW51100119…. Sinh viên: ..….....Đặng Thị Kiều Hoàng…..…. Khóa – Lớp: ………….K47-AC004…………. MSSV: ………….…31211021789………...…

1

MỤC LỤC A. LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………...2 B. NỘI DUNG…………………………………………………………………...2 I. TÓM TẮT VỤ VIỆC………..………………………………………….. ….2 1.Các đương sự...

…………………………………………………………….2 2.Tóm tắt vụ việc……………………………………………………………..3 3.Nhận định của tòa án…………………….. ……………………………….4 4.Quyết định………………………………………………………………….7 II. CĂN CỨ PHÁP LÝ ĐỂ SỬ DỤNG NGHIÊN CỨU VÀ GIẢI QUYẾT 9 III. QUAN ĐIỂM, Ý KIẾN CỦA TÁC GIẢ BÀI NGHIÊN CỨU………....9

1

A. LỜI MỞ ĐẦU Trong đời sống xã hội hiện nay, pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng. Nó là công cụ không thể thiếu để đảm bảo cho sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội. Pháp luật không chỉ góp phần xây dựng một xã hội trật tự, văn minh mà đồng thời còn hướng đến việc bảo vệ và phát triển các giá trị tốt đẹp, ngăn chặn các hậu quả tiêu cực do con người gây ra và một trong số đó là những hành vi vi phạm pháp luật. Vi phạm pháp luật là những hành vi trái pháp luật và có lỗi, do chủ thể có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện, xâm hại đến các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ từ đó gây mất ổn định xã hội. Bởi vì thế nên việc tìm hiểu về vi phạm pháp, cấu thành vi phạm từ đó làm phát sinh trách nhiệm pháp lý có ý nghĩa vô cùng quan trọng góp phần phòng chống vi phạm pháp luật trong xã hội. Để hiểu rõ hơn thì chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về Bản án 18/2021/HSST ngày 04/06/2021 về tội trốn thuế. A. NỘI DUNG I. TÓM TẮT VỤ VIỆC: 1.Các đương sự: Ngày 4/6/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 05/2021/HSST, ngày 05/02/2021 theo Quyết định số 06/2021/QĐXXST-HS ngày 10/3/2021 với các đương sự:

Ông Thạch Kim M, sinh năm 1967. Địa chỉ: thôn ĐB, xã M, huyện M, tỉnh Đắk Nông. Bà Trần Thị Như H, sinh năm 1975. Địa chỉ: thôn ĐB, xã M, huyện M, tỉnh Đắk Nông - Nguyên đơn dân sự: Chi cục thuế khu vực ĐS (thị trấn M, huyện M, tỉnh Đắk Nông); Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Ngọc B – Chi cục trưởng; Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Thanh H – Đội trưởng Đội kiểm tra thuế Chi cục Thuế 2

khu vực ĐS (giấy ủy quyền số 01/UQ-CCTKV, ngày 19/4/2021) (Có mặt) - Bị đơn dân sự: Công ty TNHH TL (thôn ĐB, xã M, huyện M, tỉnh Đắk Nông); Người đại diện theo pháp luật: Ông Thạch Kim M, sinh năm 1967; Chức vụ: Giám đốc (bị cáo trong vụ án) (Có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: +Công ty TNHH TQ (số 43 TP, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk); Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Xuân Q (Vắng mặt) +Công ty TNHH AV (số 27 ĐVN, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk); Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương An H (Có đơn xin xét xử vắng mặt) +Công ty TNHH xây dựng ĐN (số 102 PĐL, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk); Người đại diện theo pháp luật: Bà Tưởng Thị Huyền T; Đại diện theo ủy quyền: Bà Nguyễn Thị T (giấy ủy quyền số 08/UQ-NT, ngày 23/3/2021) (Có đơn xin xét xử vắng mặt) +Công ty TNHH vận tải TN (buôn E, xã KN, huyện BĐ, tỉnh Đắk Lắk); Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn L (Có đơn xin xét xử vắng mặt) +Công ty TNHH xây dựng B (số 90 NCT, phường TA, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk); Người đại diện theo pháp luật: Ông Lê Văn T (Vắng mặt) +Công ty TNHH MTV in Đ (số 45 NTT, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk); Người đại diện theo pháp luật: Ông Hồ Hoàng H (Có đơn xin xét xử vắng mặt) 2.Tóm tắt vụ việc Trong quá trình hoạt động kinh doanh Công ty TNHH TL do Thạch Kim M làm giám đốc không hoàn thành nghĩa vụ đóng 3

thuế dẫn đến nợ tiền thuế của Nhà nước. Ngày 07/5/2018, Chi cục thuế huyện Đ ra Quyết định số 242/QĐ-CCT về việc áp dụng cưỡng chế bằng biện pháp thông báo hóa đơn không còn giá trị sử dụng (thời hạn từ ngày 09/5/2018 đến ngày 08/5/2019), Thông báo số 563/TB-CTT về việc hóa đơn không còn giá trị sử dụng đối với Công ty TNHH TL. Trong thời gian bị cưỡng chế do không có hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) để sử dụng trong việc bán hàng hóa. Ngày 05/9/2018, Trần Thị Như H, kế toán của Công ty gửi Thông báo phát hành 500 số hóa đơn đến Chi cục thuế khu vực ĐS bằng hình thức điện tử. Mặc dù

Thạch Kim M và Trần Thị Như H đã biết hồ sơ thông báo phát hành 500 số hóa đơn không được Cơ quan thuế chấp nhận do Công ty đang trong thời gian bị cưỡng chế, 500 số hóa đơn này không có giá trị sử dụng nhưng Thạch Kim M vẫn chỉ đạo Trần Thị Như H ký hợp đồng bán đá xây dựng các loại cho 5 doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk và xuất 17 số hóa đơn trong 500 số hóa đơn GTGT đã in. Trần Thị Như H là người viết trực tiếp các nội dung vào 17 số hóa đơn, phần chữ ký tại mục người bán hàng được Thạch Kim M sử dụng hộp dấu chữ ký để đóng (không ký trực tiếp). Tổng khối lượng hàng hóa bán ra là 10.440 m3 đá xây dựng các loại, thành tiền 2.146.132.724 đồng và thuế GTGT 214.613.272 đồng. Thạch Kim M chỉ đạo cho Trần Thị Như H để ngoài sổ sách kế toán, không thực hiện việc vào sổ sách kế toán để hạch toán các chi phí đầu vào và các khoản thu có liên quan đến 17 số hóa đơn trên, đồng thời không làm hồ sơ khai thuế, phí cho cơ quan thuế và nộp thuế đối với khối lượng đá xây dựng các loại đã bán ra, trốn thuế với tổng số tiền là 474.707.484 đồng để sử dụng vào mục đích cá nhân, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Tại bản cáo trạng số: 05/CTrVKS, ngày 05/02/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông đã truy tố các bị cáo Thạch Kim M, Trần Thị Như H về tội “Trốn thuế”. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil sau khi phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố, căn cứ nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử.

4

3.Nhận định của tòa án - Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. - Công ty TNHH xây dựng ĐN; Công ty TNHH vận tải TN ; Công ty TNHH MTV in Đ; Công ty TNHH TQ; Công ty TNHH xây dựng B vắng mặt. Tuy nhiên việc vắng mặt của họ cũng không gây trở ngại cho việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là đúng quy định. - Tại phiên tòa, các bị cáo Thạch Kim M, Trần Thị Như H đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như diễn biến sự việc mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã truy tố mà không bào chữa, không tranh luận gì. - Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: + Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. + Sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tại phiên tòa các bị cáo đã thực sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình gây ra; Các bị cáo tích cực khắc phục hậu quả gây ra thể hiện qua việc đã tự nguyện nộp đủ số tiền trốn thuế, phí trong quá trình điều tra và trong thời hạn chuẩn bị xét xử. Nên cần được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định

tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của BLHS. +Bị cáo Thạch Kim M bị tổn thương cơ thể do bệnh tỷ lệ 81% và đang được hưởng chế độ chính sách của Nhà nước; trong thời gian tham gia quân đội được tặng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng III (xác nhận của Lữ đoàn 7 thuộc Quân đoàn 3); bố, mẹ, anh trai bị cáo được Nhà nước tặng Huân, Huy chương kháng chiến hàng nhì và ba. Vì những lí do trên nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS cho bị cáo.

5

+Đối với bị cáo Trần Thị Như H phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có chồng được tặng thưởng Huân, Huy chương nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51 cho bị cáo. -Về thân nhân của bị cáo: + Đối với bị cáo Trần Thị Như H có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này thì trước đó không có bất cứ vi phạm pháp luật gì. + Đối với bị cáo Thạch Kim M: tại Bản án số 50/2020/HSST, ngày 30/09/2020 bị cáo bị xử phạt 02 năm tù về tội “Chế tạo, sử dụng trái phép vật liệu nổ” theo điểm đ khoản 2 Điều 305 BLHS, sau khi xét xử bị cáo kháng cáo toàn bộ bản án. Hiện tại chưa có kết quả xét xử của cấp Phúc thẩm; Ngày 09/12/2020 bị UBND tỉnh Đắk Nông ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi khai thác khoáng sản trái phép với số tiền 60.000.000 đồng (đã đóng tiền phạt). Mặc dù xảy ra sau hành vi trốn thuế nhưng cũng cần xem xét là nhân thân xấu.  Vì thế Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo Thạch Kim M ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội đồng thời cũng răn đe phòng ngừa chung trong xã hội. Còn đối với bị cáo Trần Thị Như H phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, hoàn cảnh gia đình thực sự khó khăn nếu cả hai vợ chồng đều bị giam giữ. Nên xét về mặt nhân văn cùng việc thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta, không cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng hình phạt tù cho hưởng án treo. Phù hợp với hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. - Về trách nhiệm dân sự:

6

+ Công ty TNHH TL thuộc loại hình Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, theo quy định tại Điều 8 và điểm b khoản 1 Điều 47 của Luật Doanh nghiệp .Trên danh nghĩa Công ty TNHH TL được hưởng lợi từ việc phạm tội của các bị cáo. Vì vậy, đối với số tiền trốn thuế 474.707.484 đồng buộc Công ty TNHH TL có nghĩa vụ nộp Ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên các bị cáo Thạch Kim M, Trần Thị Như H đã tự nguyện nộp số tiền trốn thuế 474.707.484 đồng vào tài khoản của Chi cục thi hành án dân sự huyện M nên cần chấp nhận để chuyển nộp Ngân sách Nhà nước

vào tài khoản thu ngân sách của Chi cục thuế khu vực ĐS mở tại Kho bạc Nhà nước huyện M, tỉnh Đắk Nông. + Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil đã tiến hành kê biên tài sản của các bị cáo Thạch Kim M và Trần Thị Như H đối với thửa đất số 102, tờ bản đồ số 39 tại thôn ĐB, xã M, huyện M, tỉnh Đắk Nông theo Lệnh kê biên tài sản số 01/LKBTS-CSĐT, ngày 17/12/2020. Xét thấy các bị cáo vừa là thành viên góp vốn, vừa là giám đốc và kế toán của công ty nên việc kê biên tài sản là cần thiết. Nay các bị cáo đã thực hiện xong việc khắc phục hậu quả nộp đủ số tiền trốn thuế nên cần hủy bỏ Lệnh kê biên tài sản. -Vật chứng của vụ án: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: + Đối với 01 quyển hóa đơn GTGT số 0000009 ký hiệu TL/18P từ hóa đơn số 0000401 đến 0000450; 05 quyển phiếu xuất của Công ty TNHH TL số 0366, 0368, 0375, 0343, 0355; 17 số hóa đơn GTGT mẫu số 01GTKT3/001 ký hiệu TL/18P là tài liệu chứng cứ nên cần lưu giữ theo hồ sơ. + Đối với 01 hộp dấu chữ ký của Thạch Kim M có đặc điểm màu xanh – đen (bị vỡ một cạnh) do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy là phù hợp. - Các vấn đề khác

7

+ Quá trình mua bán hoàng hóa 05 doanh nghiệp không biết việc Công ty TNHH TL đang trong thời gian bị cưỡng chế hóa đơn và sử dụng hóa đơn bất hợp pháp. Sau khi biết Công ty TNHH TL sử dụng hóa đơn bất hợp pháp 05 doanh nghiệp đã chủ động kê khai điều chỉnh giảm trên tờ khai thuế, điều chỉnh giảm thuế GTGT được khấu trừ trước khi cơ quan chức năng phát hiện và giao nộp lại hóa đơn và các tài liệu có liên quan đến việc mua bán đá xây dựng các loại cho Cơ quan điều tra. Vì vậy không có căn cứ để xử lý các doanh nghiệp nêu trên. + Đối với Công ty TNHH TL đã đáp ứng các điều kiện là pháp nhân thương mại theo Điều 74, Điều 75 và Điều 83 của Bộ luật dân sự. Căn cứ Điều 75 của Bộ luật hình sự 2015 quy định về điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Trong quá trình thực hiện hành vi trốn thuế cả hai bị cáo là Thạch Kim M (giám đốc, người đại diện theo pháp luật) và Trần Thị Như H (thành viên góp vốn, kế toán của công ty) đã sử dụng số tiền trên vào mục đích cá nhân, không phải vì lợi ích của pháp nhân. Vì vậy không đủ điều kiện để xử lý hình sự đối với pháp nhân thương mại là Công ty TNHH TL. + Đối với Công ty TNHH MTV in Đ về trình tự, thủ tục hợp đồng in 500 số hóa đơn GTGT từ số 0000001 đến số 0000500 mẫu số 01GTKT3/001, ký hiệu TL/18P với bị cáo Thạch Kim M được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, không có căn cứ

để xử lý đối với Công ty In Đắk Lắk. + Đối với hành vi của Thạch Kim M và Trần Thị Như H sử dụng 17 số hóa đơn GTGT khi chưa hoàn thành việc thông báo phát hành để xuất bán khối lượng 10.440 m3 đá các loại là hành vi sử dụng hóa đơn bất hợp pháp nhưng đã hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính nên không đề cập xử lý. Đối với hành vi phát hành 17 số hóa đơn GTGT của Công ty TNHH TL theo kết luận giám định công ty không vi phạm nên không có căn cứ để xử lý.

8...


Similar Free PDFs